1. Xưa…
Từ xưa, tục thờ thần, thánh của người Việt đã thể hiện rõ bản chất tín ngưỡng đa thần bản địa. Sự hiện diện của những hình thái tín ngưỡng sơ khai nguyên thủy như: vạn vật hữu linh, thờ sinh thực khí với hành vi giao phối, thờ các hiện tượng thiên nhiên mây, mưa, sấm, chớp (tứ pháp), tín ngưỡng tứ phủ, tín ngưỡng thờ động vật, thờ nhân thần, thờ cúng tổ tiên… cho thấy tính chất đa dạng trong đời sống tâm linh của cư dân Việt. Hệ thống nhân thần trong tín ngưỡng người Việt thường là các vị anh hùng có công với nước, giúp dân khai hoang lập ấp, dựng nghề khởi nghiệp. Bên cạnh đó, các vị thần nhiều khi cũng chỉ là những nhân vật hết sức bình thường, thậm chí tầm thường như một người chết bất đắc kỳ tử, một tay ăn trộm, tướng cướp hay kẻ ăn mày, người hót phân… Những nhân thần dạng này hầu hết giống nhau ở chỗ đều… chết vào giờ thiêng nên linh ứng với cộng đồng, khiến cho người dân khiếp sợ mà lập đền thờ phụng. Về sau, người Việt du nhập thêm những tôn giáo bên ngoài như Phật giáo, Lão giáo, Khổng giáo, Ấn Độ giáo, Thiên chúa giáo, Hồi giáo… Trên cơ sở tích hợp, cải biên những tôn giáo ngoại lai đó, người Việt tiếp tục sáng tạo thêm những tôn giáo mới như Cao Đài, Hòa Hảo… Với những tín ngưỡng dân gian bản địa, hành vi cúng lễ bao giờ cũng mang tính thực dụng cao. Người ta cúng cho thần thánh con trâu, con lợn, con gà, vật phẩm này nọ… có nghĩa mong muốn đấng siêu nhiên phải phù trợ cho mùa màng bội thu, tài lộc may mắn… Động cơ vụ lợi của con người trong tín ngưỡng có lẽ cần được xem là đặc điểm xưa như trái đất. Chính vì thế, nhiều tôn giáo ngoại nhập cũng dần dà được người Việt bản địa hóa với sự đan xen pha trộn đủ loại, đủ màu sắc bất kể bản chất những tín ngưỡng tôn giáo có mâu thuẫn với nhau như thế nào.
Nhìn chung, người Việt quan niệm, con người sau khi chết đi sẽ tồn tại mãi mãi với sự hiện diện của linh hồn bất diệt thông qua hệ thống mồ mả chứa đựng di hài, xương cốt. Với quan niệm đó, tục thờ cúng tổ tiên ông bà cùng việc chăm sóc mộ phần được xem như một tín ngưỡng mang tính bản địa, thể hiện lòng tôn kính với người đã khuất, đạo lý uống nước nhớ nguồn. Thế giới linh hồn người chết luôn hiện hữu song hành với thế giới người sống, có thể tác động gián tiếp hoặc trực tiếp lên mỗi thân phận của con người. Điều đó có nghĩa các thế lực linh hồn có khả năng phù trợ hoặc gây hại với con người trần thế. Khái niệm mồ yên mả đẹp là một trong những biểu hiện quan trọng cho mối quan hệ qua lại tốt đẹp giữa trần gian và cõi âm. Bởi vậy, người ta cho rằng tác động của thế lực linh hồn như thế nào sẽ tùy thuộc vào phép tắc cúng bái, ứng xử của người sống.
Song song với việc thờ cúng tổ tiên ông bà, thì tục thờ âm hồn nói chung còn biểu hiện rõ ở việc người ta lập những ngôi miếu nhỏ để thờ những người chết bất đắc kỳ tử nơi đầu đường xó chợ. Với niềm tin bất kỳ vong hồn nào cũng có thể tác động lên thế giới thực tại, nhiều địa phương ở miền Trung còn có tục cúng vong trước cửa nhà mỗi tháng đôi lần vào tối mười tư và ba mươi âm lịch. Xem ra, bất cứ ai chết đi cũng đều có sức mạnh siêu nhiên gây ảnh hưởng đến người sống trên khắp thế gian. Hẳn điều này lý giải tại sao người Việt có thể thờ một tay kẻ cướp, một gã ăn trộm, một người ăn mày… làm thành hoàng làng bảo trợ cho cộng đồng làng xã. Ở nhiều nơi, trải theo thời gian, việc thờ những nhân thần như vậy có lẽ không lấy gì làm hãnh diện cho lắm nên một mặt người ta đã phối thờ những vị thánh mới oai phong hơn, mặt khác ngụy tạo thần tích, tức không ngại sáng tạo sự tích để oai phong hóa vị thần được thờ phụng. Thế nên hiện tượng thật giả lẫn lộn là cái mà người thời nay mặc nhiên phải tiếp nhận thờ phụng.
Phật giáo quan niệm sự sống là một chu kỳ quay vòng theo kiếp (một đời sinh tử). Mọi thân phận sướng khổ của con người trần thế đều là hệ quả của nguyên nhân tương ứng, gọi là gieo nhân nào thì mọc quả nấy. Nhân có thể từ kiếp trước hoặc kiếp hiện tại. Quả nếu không lĩnh đủ ngay trong đời này thì sẽ báo ứng vào kiếp sau. Con người sau khi chết sẽ được thập điện Diêm vương xét xử công tội trong vòng 7 tuần ứng với 7 cửa ngục. Thế nên mới có tục cúng 49 ngày, đưa vong lên chùa để sư sãi cầu cho linh hồn siêu thoát. Tới kỳ 49 ngày, đại thể các linh hồn sẽ thuộc quyền quản lý của những Diêm vương. Họ sẽ soi xét công minh mọi điều lớn nhỏ mà người ta đã tạo nghiệp lúc sinh thời để quyết định sự đầu thai như thế nào, làm người sướng khổ, làm súc sinh, hoặc giả đầy xuống địa ngục chịu những hình phạt nặng nề. Với thuyết luân hồi – nhân quả, rõ ràng Phật giáo chỉ ra tính chu kỳ vô hạn của sự tồn tại. Sự bất diệt xem ra chỉ có thể dành cho những ai có chân tu truyền kiếp, sẽ được siêu thoát khỏi vòng luân hồi để lên cõi niết bàn. Phần còn lại, cứ xét công tội mà quay vòng, chẳng có linh hồn nào thoát được phiên tòa đại hình của thập điện Diêm vương. Đây chính là điểm mâu thuẫn cơ bản giữa quan niệm Phật giáo và tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, thờ cúng vong hồn của người Việt, không thể lý giải, dung hòa. Giả sử ông bà, cha mẹ… mất đi, nếu theo quan niệm Phật giáo, mọi linh hồn tất phải chuyển vận theo vòng luân hồi, kiếp này sang kiếp khác. Mọi công tội, thiện ác, tốt xấu, hay dở của từng cá thể tất dẫn đến việc linh hồn đó sẽ biến đổi sang kiếp sau như thế nào… Với quyền năng Phật pháp vô biên, các quan thập điện Diêm vương hẳn sẽ không thể bỏ sót một linh hồn nào(?). Theo đó, sự tồn tại của hệ thống mồ mả người chết trên cõi dương gian sẽ chỉ có giá trị cát bụi đúng nghĩa. Và, sẽ chẳng có sự hiện diện vĩnh hằng của hệ thống người chết, có nghĩa cũng chẳng có tổ tiên ông bà hay vong hồn nào có thể tồn tại song hành mà phù hộ hay giáng họa cho người còn sống. Dù có sự mâu thuẫn rõ ràng đến vậy, nhưng trải qua nghìn đời, từ khi dung nạp Phật giáo, người Việt vẫn duy trì song song cả 2 hệ tư tưởng nhân sinh quan, để rồi đan xen, trộn lẫn thành một tập hợp mang tín hỗn dung tín ngưỡng, in đậm sắc thái hồn nhiên.
Trong sự dung hợp đó, từ ngàn xưa, giới thày cúng trong dân gian đã có mối quan hệ mật thiết với các chư tăng nơi cửa thiền. Họ cùng nhau làm chủ những khoa cúng bao chứa hệ thống âm nhạc nghi lễ đặc sắc của Phật giáo. Đó là: mông sơn (còn gọi mông sơn thí thực hay đàn chẩn tế), tiếp linh, triệu linh, chúc thực, phát tấu, đàn kết (còn gọi giải oan cắt kết)… có mục đích chung là cầu siêu cho các linh hồn được giải thoát, nhân sự gia chủ được bình an. Điều đó có nghĩa các lễ thức được sáng tạo nhằm tăng cường mối quan hệ gắn bó giữa Phật giáo với đời sống tâm linh trong dân gian, mà cụ thể là các nghi thức tang ma, vong hồn, mồ mả… Có giả thuyết cho rằng, lễ cầu siêu bắt nguồn từ các tông phái Phật giáo chịu ảnh hưởng của Đạo giáo và văn hóa Trung Quốc. Còn ở Việt Nam, tương truyền, một trong những người có công lớn góp phần xây dựng các khoa cúng chính là thiền sư Huyền Quang (1254-1334) – tổ thứ ba của thiền phái Trúc Lâm. Ở góc độ nghệ thuật, các khoa cúng chính là nơi hội tụ các giá trị tinh hoa của ca, múa, nhạc Phật giáo Việt Nam. Với hệ kỹ thuật cũng như phương pháp xây dựng âm điệu ở trình độ cao, âm nhạc Phật giáo được xem như sánh vai cùng các thể loại chuyên nghiệp trong nền âm nhạc cổ truyền dân tộc. Ở đây, mọi giá trị được lưu truyền ở các lò đào tạo mang tính chuyên nghiệp thày trò, với mối quan hệ phối hợp, chuyển giao qua lại giữa những chư tăng cùng các thày cúng ngoài dân gian. Có nghĩa, khi nhà chùa để thất truyền lối giọng thì phải cử các nhà sư trẻ ra ngoài học thày cúng và ngược lại, các thày cúng cũng có thể tìm đến chùa để trau dồi thêm tài năng, ngón nghề của mình.
Bên cạnh Phật giáo, Đạo giáo và Nho giáo cũng được người Việt dung nạp song hành cùng tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên và nhiều tín ngưỡng bản địa khác. Có điều, tùy theo quan niệm mà phật hay thánh sẽ đứng ở vị trí trung tâm trong tư duy tín ngưỡng. Với ông thày cúng, thày phù thủy thì dù thế nào, ngọc hoàng thượng đế cùng tam thánh… tất sẽ đứng ở vị trí chính thần gây ảnh hưởng mạnh nhất. Với những con nhang đệ tử tứ phủ, chính thần lại là hệ thống các mẫu, quan, chầu, hoàng… Còn với những dân đen, tùy vào từng trường hợp cụ thể, họ sẽ trở nên linh hoạt khôn cùng để lựa chọn hình thức phù hợp giải quyết nhu cầu niềm tin tín ngưỡng. Khi thì tìm đến bàn thờ, mồ mả tổ tiên ông bà hay đơn giản những linh hồn thiêng nào đó làm chỗ dựa tâm linh, khi thì lại cầu khẩn sự giúp đỡ nơi cửa đền, cửa điện nương nhờ thánh, thần, hay mẫu, lúc lại tới chùa nương nhờ sự chở che của phật pháp chính hiệu… Điều này có lẽ biểu hiện rõ nhất ở hình ảnh tam giáo đồng nguyên, có từ cách đây tới 1000 năm.
Từ cuối TK XVII, sau khi bén rễ, Thiên chúa giáo đã nhanh chóng phát triển và lan tỏa khắp Việt Nam với giáo lý riêng có thể rút gọn trong 2 điều răn cơ bản (kính chúa trên hết mọi sự, yêu người như yêu chính mình), xác định đời người chỉ có một kiếp, răn dạy con người phải sống sao cho tốt vì sẽ không có cơ hội thứ hai. Tương tự thuyết nhân – quả, Thiên chúa giáo quan niệm rằng sau khi con người chết đi, người tốt thì sẽ lên thiên đàng do chúa cai quản, kẻ chưa sạch tội thì xuống địa ngục chờ ngày phán xét cuối cùng… Người chết thuộc về một thế giới khác biệt, không thể đón nhận hay thụ hưởng bất cứ điều gì từ người đang sống và ngược lại, cũng không thể ban phúc hay giáng họa nơi trần gian. Với đức tin đó, không tồn tại thế giới linh hồn vất vưởng tự do tự tại hoành hành thế giới loài người. Những niềm tin kiểu thờ ma quỷ, ác thần, vong hồn… được xem như sự phỉ báng nhà thờ Thiên chúa, và ở một chừng mực nào đó được xác định là tà giáo. Với nguyên tắc thờ phụng duy nhất chúa, những người theo Thiên chúa giáo tất nhiên từ bỏ tục thờ cúng tổ tiên. Nhưng dần dà về sau, đặc biệt từ nửa sau TK XX trở lại đây, tục thờ cúng tổ tiên đã hiện diện trở lại ở một số cộng đồng công giáo người Việt với quan niệm dung hợp mang tính chấp nhận hòa giải. Những giáo dân giữ tục thờ cúng tổ tiên với quan niệm mới, rằng linh hồn người thân sẽ được hưởng lợi phần nào từ việc cầu xin của người còn sống, những mong được chúa giảm, xóa tội mà thoát khỏi vòng địa ngục trong ngày phán xét cuối cùng. Nhiều giáo dân Thiên chúa cũng đã tham dự các lễ thức trong hệ thống đền phủ thờ mẫu, thành hoàng làng một cách không chính thức. Ngược lại, những người ngoại đạo Thiên chúa cũng dễ dàng hòa đồng kỷ niệm ngày chúa giáng sinh như một phần nghi thức trong năm, và hòa lẫn với các giáo dân dự lễ trong các nhà thờ.
Ở đất phương Nam, từ cuối TK XIX đến nửa TK XX, sự ra đời của đạo Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Cao Đài, Hòa Hảo… một lần nữa chứng minh mạnh mẽ tư tưởng hỗn dung tôn giáo tín ngưỡng của người Việt. Nhìn chung, các tôn giáo mới sáng lập đều dựa trên nguyên tắc cải biên những tôn giáo lớn trong sự kết hợp với hệ tín ngưỡng bản địa, đặc biệt tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên và các anh hùng dân tộc. Trong đó, đạo Cao Đài được xem như một sự tích hợp lớn nhất, bao gồm nhiều tôn giáo tín ngưỡng đông tây, kim cổ như Phật giáo, Lão giáo, Nho giáo, Hồi giáo, Thiên chúa giáo, thông linh học Tây phương… trong một chủ thuyết hợp nhất tâm linh kiểu dung hòa toàn bộ. Thế nên sẽ không thấy lạ khi gặp một tín đồ tôn giáo nào đó ở Nam Bộ vừa chắp tay – A di đà phật rồi tiếp tục làm dấu thánh – A men!
Nói chung, trong sự dung hợp tôn giáo ngoại lai với tín ngưỡng bản địa, thông thường người Việt chấp nhận đặt ngôi vị chư phật lên vị trí cao nhất. Rất phổ biến thứ tự phật – thánh trong điện thần tâm thức tín ngưỡng. Ngay trong tín ngưỡng tứ phủ, ngôi vị phật Thích Ca cùng chư phật mười phương, phật bà Quan Âm, vua Đế Thích cùng các bồ tát cũng đứng ở vị trí hàng đầu, thứ đến là ngọc hoàng thượng đế cùng các vị trí chủ chốt của điện thần Đạo giáo như ngũ nhạc thần vương, nam tào bắc đẩu, nhị thập bát tú.., dưới đó mới là hệ thống chính thần tứ phủ. Với tư duy như vậy, người Việt đến cửa thiền dường như để thêm vào một chỗ nương náu, một chốn chở che niềm tin tín ngưỡng, nhằm phù trợ cho cuộc sống nhọc nhằn, đầy rẫy khó khăn, tai ương trần thế. Bởi vậy, dễ hiểu vì sao người ta cũng đưa các vị thần, thánh dân tộc vào phối thờ trong chùa ở vị trí thứ yếu với kiểu tiền phật hậu thần và tiền phật hậu mẫu.
Như vậy, một mặt người Việt chấp nhận quy thuận, dung hợp các tôn giáo ngoại lai (đáng kể nhất là Phật giáo) nhưng mặt khác bảo lưu nguyên trạng quan niệm thờ cúng tổ tiên, vong hồn trong sự chấp nhận chi phối của chư phật, thánh thần. Bằng chứng hiển nhiên là khi ai đó qua đời, người thân vẫn phải tuân thủ việc cúng giỗ khởi điểm theo kỳ chung thất (49 ngày), đưa vong lên chùa để nhà sư tụng kinh niệm phật cầu cho linh hồn được siêu thoát. Đây cũng có thể ví như quan niệm trần sao âm vậy. Khi còn sống, dù con người có tốt xấu như thế nào nhưng khi chết đi, mấy ai dám tự tin rằng mình vô tội. Việc nương nhờ phật pháp thông qua thiết chế chùa chiền, sư sãi với các lễ thức cúng bái, tụng kinh, đọc chú…, đàn lễ vật phẩm lớn bé… được xem như một sự cầu xin, ít nhiều mang tính chất chạy án trong tâm tưởng. Qua đó, người còn sống hy vọng người chết được siêu thoát, linh hồn được đầu thai sang kiếp khác sướng hơn mà không bị đày xuống địa ngục… Điều này lý giải cho sự ra đời các khoa cúng cầu siêu của nhà chùa trong sự kết hợp với thày cúng dân gian. Đây là biểu hiện sống động xu hướng bản địa hóa Phật giáo theo nhu cầu tâm linh tín ngưỡng vong hồn, mồ mả… của người Việt. Qua đây, mới hiểu tại sao các khoa cúng cầu siêu lại hội tụ mọi giá trị tinh hoa ca, múa, nhạc của Phật giáo. Cùng với hệ thống kinh kệ, bùa chú.., chính sức cuốn hút của nghệ thuật đã có tác dụng mạnh mẽ trong sự phủ dụ, xoa dịu nỗi đau cũng như tạo niềm tin lớn lao với thế giới người sống. Đó là một hệ quả tất yếu của quá trình sáng tạo, tiếp biến trong mối quan hệ cung cầu tâm linh. Thế nhưng, dù nương nhờ phật pháp như vậy, nhưng rút cục, người chết vẫn được lập mộ với quan niệm cõi âm vĩnh hằng có từ thời nguyên thủy. Tổ tiên thờ cúng vẫn được xem như một thế lực vô hình, có lúc tựa hồ thần thánh, sẽ tác động trực tiếp tới cuộc sống trần gian. Trong sự hỗn dung tín ngưỡng, bên cạnh Phật giáo, người ta còn cậy nhờ vai trò trung gian của Đạo giáo… cùng thuật phong thủy, bói toán… với vai trò hành lễ của các nhà sư, thày cúng, thày bói, thày phù thủy, cô hồn.., ngõ hầu tác động tới thế giới tổ tiên. Nhìn nhận những mối quan hệ tưởng tượng nhằng nhịt và chồng chéo này, mới hiểu tại sao người Việt vừa đi lễ chùa cầu phật, vừa đi lễ đền, đình, phủ, miếu cầu thánh thần, vừa cầu cúng tổ tiên ông bà hay hệ thống những âm hồn. Điều đó có nghĩa niềm tin cổ xưa về thế giới vong hồn vĩnh hằng rút cục đã bất chấp thuyết luân hồi – nhân quả. Có thể nói, sự hỗn dung tín ngưỡng đầy mâu thuẫn đó tồn tại từ hàng nghìn đời nay, một mặt thể hiện dấu vết hồn nhiên mang đậm tính thực dụng nguyên thủy, nhưng mặt khác cũng thể hiện sự yếu đuối, dễ dãi về nhân sinh quan, vũ trụ quan trong tâm thức xã hội Việt. Điều này thể hiện rõ ở cái tâm lý bán tín bán nghi kiểu có thờ có thiêng, có kiêng có lành, vốn rất phổ biến trong dân gian bao đời.
Trong cộng đồng làng xã Việt Nam, họ tộc vốn được xem như một bộ phận cấu thành cơ bản. Ở góc độ tâm lý, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là tiền đề chi phối mạnh mẽ quan hệ gia đình, dòng tộc và kết cấu xã hội người Việt. Đặc biệt từ khi chịu ảnh hưởng của hệ tư tưởng Nho giáo trọng nam khinh nữ, việc sinh con trai trở nên vô cùng quan trọng. Người ta quan niệm rằng chỉ có con trai mới được coi là nối dõi tông đường với nghĩa vụ ôm bàn thờ, coi sóc việc cúng bái ông bà, phần mộ tổ tiên. Từ ngàn xưa, khái niệm suất đinh trong mỗi họ tộc chính là để chỉ số lượng người con trai, quyết định xem dòng họ lớn bé như thế nào. Dòng họ nào cũng có nhà thờ tổ, tựa như một ngôi đền thờ riêng, do các trai đinh coi sóc. Từ đó, trải qua bao đời, sẽ thấy việc sinh con trai luôn trở thành một vấn đề tối quan trọng trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên người Việt. Biết bao điều ngang trái đã nảy sinh từ hệ ý thức này. Việc này hiển nhiên đè nặng lên vai người phụ nữ Việt từ bao đời nay. Trong kết cấu dòng họ, việc coi trọng con trai hơn con gái còn sinh ra nhiều hệ lụy khác. Ví như, họ nội bao giờ cũng được coi trọng hơn họ ngoại, cái thế nhất bên trọng, nhất bên khinh là điều thực tế dù không ai muốn nói ra. Đáng chú ý hơn, có những vùng quê, con gái trong gia đình còn không được phép mang họ bố. Thay vào đó, họ buộc phải lấy tên đệm của bố làm họ riêng cho tên gọi. Trong xã hội thời nay, điều này đã gây biết bao khó khăn cho thủ tục giấy tờ trên đường đời của những người con gái đó. Và mặc nhiên, họ chẳng có quyền thừa kế tài sản của gia đình, kể cả với pháp luật hiện hành.
2. Và nay…
Từ sau thời kỳ đổi mới (1986), đời sống tâm linh tín ngưỡng trong xã hội được cởi mở, tự do hơn. Theo thời gian, bộ mặt tín ngưỡng hỗn dung của người Việt lại được dịp phục hưng với mọi sắc thái, xem ra còn phức tạp, hỗn loạn hơn cả thời kỳ phong kiến. Hơn 10 năm trở lại đây, cùng với phong trào phục dựng những giá trị di sản văn hóa dân tộc, các lễ hội tín ngưỡng trong cả nước cũng dần được khôi phục. Thế nhưng, trong xã hội hiện đại, đã bắt đầu nảy sinh những hiện tượng biến tướng ở nhiều hình thái tín ngưỡng. Trong đó có những vấn đề ngày càng trở nên bức xúc, mà hiện tượng kinh doanh các dịch vụ tâm linh ở những cơ sở tín ngưỡng là ví dụ điển hình. Trong xu thế phát triển văn hóa, việc biến các lễ hội thành sản phẩm du lịch trở nên một nhu cầu thiết yếu. Bởi thế, việc cố gắng tận thu tiền bạc của du khách thập phương là một hệ quả không thể khác. Đời sống càng khó khăn, động cơ thương mại càng được đẩy cao. Có những nơi, khi mở hòm công đức mỗi năm cũng đếm được cả hơn chục tỉ đồng mỗi hòm. Ở Hà Nội dịp đầu xuân, nhiều ngôi chùa cũng công khai thu phí cúng sao giải hạn, dao động từ vài trăm nghìn đến tiền triệu cho mỗi xuất cúng. Nhiều đàn cúng giải oan, cầu siêu… có giá cả dao động từ vài chục đến hàng trăm triệu đồng tiền thuê khoán sư sãi, thày cúng… Có thể thấy, nguồn thu từ các hoạt động tâm linh tín ngưỡng quả là siêu lợi nhuận. Xã hội càng tín ngưỡng, càng mê đắm bao nhiêu, các đình, chùa, đền, miếu… càng có nguồn lợi lớn bấy nhiêu. Chính vì vậy ở nhiều nơi, quyền cai quản cơ sở tín ngưỡng đã được chính quyền tổ chức đấu thầu hệt như một đầu mục thương mại địa phương. Tùy vào tiếng tăm linh thiêng của ngôi đền mà người ta sẽ quyết định mức giá. Có những nơi sau khi thắng thầu, thủ nhang đồng đền phải nộp vào ngân sách địa phương hàng tỉ bạc mỗi năm.
Nhiều năm qua, hệ thống quản lý nhà nước dường như phải mở cuộc chạy đua với đời sống tín ngưỡng trong xã hội mới. Cấm, cho phép, cấm… luôn là quá trình vận động vá víu, đối phó với thực tiễn từ nhiều chục năm nay. Chuyện bắt cóc bỏ đĩa là thực trạng thường thấy. Trên thực tế, việc đòi hỏi khâu tổ chức lễ hội trở nên quy củ, an toàn lành mạnh và trong sáng dường như là nhiệm vụ bất khả thi. Thứ nhất, xưa các lễ hội chủ yếu chỉ quy tụ dân cư thu hẹp trong từng vùng, nay với sự quảng bá hấp dẫn của truyền thông, số lượng người hành lễ, chơi hội đổ về luôn quá tải trên mọi địa bàn. Do vậy, việc khống chế, kiểm soát lượng người trong những không gian nhỏ hẹp là điều bất khả kháng. Thứ hai, khi phục hưng các lễ hội, nhiều tín ngưỡng dân dã có dấu vết từ thời nguyên thủy cũng đồng thời hồi sinh, đánh thức sự trục lợi bản năng của con người với thần linh. Thực tế cho thấy, sự mê đắm của đám đông tín ngưỡng khổng lồ rất dễ biến thành thảm họa bởi hiệu ứng tâm lý đám đông, khả năng kiểm soát an ninh dường như là điều không thể. Nhiều năm qua, việc hàng vạn người từ quan chức tới dân thường dẫm đạp lên nhau để cướp ấn đền Trần, hay lượng người hành lễ khổng lồ tràn ngập chặn đứng giao thông Ngã Tư Sở trước cổng chùa Phúc Khánh để dâng lễ xin sao giải hạn, cầu tài lộc… đã chứng minh sức mạnh kinh hoàng của niềm tin tín ngưỡng hồn nhiên như thế nào. Vấn đề không chỉ nằm ở khâu tổ chức, mà điều quan ngại chính là trình độ tín ngưỡng, tạm coi như tín ngưỡng trí của xã hội, hiện đang ở mức không thể kiểm soát.
Những năm gần đây, các cuộc hành hương dự lễ hội tín ngưỡng là vấn đề nóng bỏng trong xã hội. Những nguy cơ tai nạn, thảm họa đám đông luôn thường trực mỗi độ xuân về. Chỉ xem xét cách thức hành hương cùng niềm tin tín ngưỡng trong các lễ hội đó đã thấy trình độ tín ngưỡng người Việt thời nay như thế nào. Ví như việc khai ấn đền Trần Nam Định, vốn là một sinh hoạt xưa của những thanh đồng phù thủy. Đầu xuân, họ thường đến xin lá ấn ở đền thờ đức thánh Trần, những mong thánh phù hộ cho công việc bắt ma trừ tà của giới nghề. Cần thấy rằng, chiếc ấn gỗ đó cũng là hàng mới thửa, không có ý nghĩa như một bảo vật lịch sử. Thế nhưng dần dà về sau, theo đường thì thầm rỉ tai lan truyền, chuyện thiêng hóa chiếc ấn với sức mạnh phù danh, ban tài phát lộc đã nhanh chóng lan truyền khắp nơi. Đến nỗi nhiều quan chức nhà nước năm nào cũng đua nhau đánh xe công kéo về đền Trần xin ấn… Nhiều năm nay ở Hà Nội, có ngôi chùa đã công khai đọc vào loa phát thanh tên các vị lãnh đạo cấp cao đăng ký dâng sao giải hạn mà không còn e ngại. Và giờ đây, nếu có nghe chuyện vị lãnh đạo nọ kia chăm đi lễ bái, cầu cúng… hay thậm chí có làm lễ trình đồng mở phủ hầu bóng thì cũng không lấy gì làm lạ. Thế nhưng, vấn đề ở đây là câu chuyện quan trí đầu têu cho dân trí. Dễ thấy người dân sẽ hồn nhiên suy đoán, rằng các quan nhờ chăm lễ bái, cúng tế nhiều tiền, đốt nhiều vàng mã nên mới có chức tước, danh vị, bổng lộc, mình làm theo không được nhiều thì cũng được ít lộc vãi. Bởi thế, mới nảy sinh hiện tượng đồn đại rằng cứ đền chùa nào có nhiều quan to đến lễ bái là đám dân thường a dua ăn theo, khiến cho vấn nạn thảm họa đám đông ngày càng trở nên khó kiểm soát.
Trong sự sống dậy của các tín ngưỡng cổ xưa, vụ việc lùm xùm xoay quanh chuyện cụ rùa hồ Gươm cũng là một biểu hiện sống động về sự hồi sinh của quan niệm vạn vật hữu linh thời nguyên thủy. Trên thực tế, cụ rùa vốn chỉ là một giống ba ba khổng lồ ăn thịt, dân gian gọi là con giải. Thế nhưng với niềm tin tâm linh đồn đại, con vật đã dần dà được thiêng hóa thành rùa vàng truyền thuyết gắn với tích trả gươm thần của Lê Lợi từ TK XV. Bất chấp sự phi lý lịch sử, bất chấp những bằng chứng khoa học rằng đó không phải là rùa và không chỉ có 1 con duy nhất, những người có tín ngưỡng vẫn khăng khăng bảo lưu ý kiến của mình, tạo nên những cuộc tranh cãi nảy lửa. Thôi thì đủ mọi chuyện dở khóc dở cười với cái ý thức tâm linh hồn nhiên, vốn xưa cũ từ thời nguyên thủy. Có gia đình, với niềm tin kiểu thần cây đa, ma cây gạo, sức khỏe và sinh mạng của những người thân được gán cho một cái cây mọc trong vườn nhà. Họ tin rằng hễ cây ấy héo là người thân lâm bệnh, còn nếu không săn sóc tốt nhỡ để cây chết khô thì người nhà họ cũng toi mạng. Thời nay, chuyện đám đông thắp hương khấn khứa một cái cây góc phố, một hòn đá ven đường vẫn tồn tại đây đó. Sẽ không thấy lạ cái chuyện người người chen nhau lễ bái xì xụp, nhưng hỏi địa điểm đó thờ gì, sự tích ra sao, phần lớn không ai hiểu. Thế mới biết tâm lý bán tín bán nghi trong truyền thống tâm linh người Việt có sức mạnh như thế nào, thôi thì có thờ có thiêng, có kiêng có lành, cho chắc ăn! Có lẽ vì thế, hành vi trục lợi bất chấp sự vi phạm giáo lý phật pháp như việc đốt vàng mã, hình nhân, rải tiền bừa bãi, nhét tiền vào tượng phật… nơi cửa thiền là điều không có gì lạ. Sự vụ lợi của con người thường là vậy, họ sẵn sàng coi phật thánh… không khác gì những quan tham trần thế kiểu trần sao âm vậy, cứ hồn nhiên, đắm đuối tin rằng càng cúng nhiều, thánh thần sẽ càng ban nhiều tài lộc…
Ở nhiều nơi, hiện tượng coi chùa này thiêng hơn chùa kia khá phổ biến. Người dân luôn hồn nhiên tin rằng đi chùa này có thể cầu sao giải hạn, cầu danh, đi chùa kia có thể cầu tài lộc, cầu tình duyên… Với hiệu ứng tâm lý đám đông lan truyền đồn thổi, việc quá tải ở các cơ sở tín ngưỡng linh thiêng luôn là vấn nạn đối với cơ quan quản lý sở tại. Cần hiểu rằng Phật giáo vốn là một hệ tư tưởng triết học, đạo đức lớn. Chùa chiền là nơi con người tìm đến niềm tin cao cả trên cơ sở tu tâm hướng thiện từng cá thể, hoàn toàn không phải là nơi trục lợi, trao đổi vật phẩm cúng bái để phục vụ những ham muốn trần tục. Không chỉ là vấn đề thiếu hiểu biết của người dân về giáo lý, mà chính các nhà sư trụ trì cũng cần xem lại trách nhiệm về những gì đã và đang diễn ra ở cơ sở thờ tự của mình. Việc hiểu sai giáo lý nhà Phật đương nhiên sẽ dẫn đến những hành vi phạm giới. Xin nêu một ví dụ đơn giản, khái niệm tam độc của Phật giáo bao gồm tham, sân, si. Khi đến cửa thiền mà không thấu hiểu giáo lý, đốt vàng mã, nhét tiền vào tượng, mang cả rượu thịt vào chùa, tin rằng cúng càng nhiều càng có cơ may hưởng phúc, vô tình những người tham dự đều phạm phải điều răn thứ nhất (tham = tham lam, ham muốn) và thứ ba (si = ngu si, mê muội). Còn khi lòng tham biến thành sự cuồng nộ dẫm đạp tranh giành lộc lá, vật phẩm, họ tiếp tục phạm giới điều răn thứ hai (sân = nóng nảy, giận dữ). Trên thực tế, còn vô số những điều nhạy cảm khác nữa mà nhiều người e ngại chẳng muốn nói ra, như lối sống sung túc, xa hoa trên mức cần thiết với một nhà tu hành thời nay như vật dụng hàng hiệu, xe máy đắt tiền, ôtô sang trọng… nơi cửa thiền. Vậy số tiền đó ở đâu ra nếu không lấy từ nguồn công đức khổng lồ thu về mỗi năm của nhà chùa?
(Còn nữa)
Nguồn : Tạp chí VHNT số 335, tháng 5-2012
Tác giả : Bùi Trọng Hiền
Bài viết cùng chủ đề:
Tản mạn về truyền thống hỗn dung tín ngưỡng của người việt (p2)
Thực trạng hệ thống pháp luật về văn hóa, gia đình và một số định hướng trong thời gian tới
Một số rào cản trong môi trường văn hóa kinh doanh ở việt nam