Tập trung thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng về phát triển văn hóa


Sáng nay 24-11-2021, Hội nghị Văn hóa toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã diễn ra trọng thể tại Phòng họp Diên Hồng, Nhà Quốc hội (Hà Nội). Hội nghị do Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng tổ chức. Tới dự Hội nghị có Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng; Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc; Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ; Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Võ Văn Thưởng, Bí thư T.Ư Đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo T.Ư Nguyễn Trọng Nghĩa cùng sự tham gia của hàng trăm đại biểu là Lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các nhà quản lý văn hóa, trí thức, văn nghệ sĩ tiêu biểu. Hội nghị kết nối trực tuyến với 67 điểm cầu ở các ban, bộ, ngành, tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, đường truyền mở rộng đến cơ sở.

Toàn cảnh Hội nghị văn hóa toàn quốc – Ảnh: Tuấn Minh

Tại Hội nghị, đồng chí Nguyễn Văn Hùng, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã có tham luận trình bày với tiêu đề “Tập trung thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng về phát triển văn hóa”. Tạp chí điện tử Văn hóa Nghệ thuật xin trân trọng đăng toàn văn bài phát biểu của đồng chí Nguyễn Văn Hùng tại Hội nghị.

Kính thưa đồng chí Nguyễn Phú Trọng – Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam;

Kính thưa các đồng chí Lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; Lãnh đạo các Ban, bộ, ngành, địa phương;

Kính thưa các quý vị đại biểu, khách quý!

Như các đồng chí đã biết, vào ngày này 75 năm về trước, trong bối cảnh chính quyền cách mạng còn non trẻ phải đối phó với muôn vàn khó khăn trong tình thế “ngàn cân treo sợi tóc” của dân tộc, Hội nghị văn hóa toàn quốc lần thứ nhất đã được tổ chức dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại.

Tại Hội nghị, Bác Hồ kính yêu đã chỉ rõ: “Văn hóa phải hướng dẫn quốc dân thực hiện Độc lập, Tự cường và Tự chủ”; “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi”. Lời hiệu triệu của Người và những mục tiêu cốt lõi được đặt ra tại Hội nghị đã khơi dậy ngọn lửa quyết tâm, là động lực tinh thần của toàn dân tộc để cùng với chính trị và kinh tế, văn hóa đã góp phần quan trọng vào thành côngcủa công cuộc kháng chiến kiến quốc. 

Và hôm nay, tại Phòng họp Diên Hồng – nơi đại diện cho tinh thần Dân chủ, ý chí Độc lập, Tự cường của dân tộc Việt Nam – trong thời điểm toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang tích cực triển khai NQĐH 13, chủ động phòng chống dịch bệnh COVID-19 theo hướng thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch bệnh để khôi phục, phát triển kinh tế – xã hội, Hội nghị văn hóa toàn quốc được Bộ Chính trị, Ban Bí thư quyết định tổ chức, thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Đảng, Nhà nước đối với sự nghiệp phát triển văn hóa gắn với xây dựng con người Việt Nam.

Với trách nhiệm là cơ quan tham mưu, phục vụ Hội nghị, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch có điều kiện để tiếp cận sớm các báo cáo vì vậy chúng tôi biểu thị sự đồng tình cao với nội dung báo cáo Trung tâm do đồng chí Bí thư Trung ương Đảng – Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương trình bày. Để góp phần làm rõ một số nội dung trong báo cáo, tôi xin tập trung vào hai vấn đề chính như sau:

Kính thưa các đồng chí Lãnh đạo, các quý vị đại biểu, khách quý!

Kể từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, đất nước tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo, dù còn nhiều khó khăn, song với sự nỗ lực, quyết tâm, Ngành Văn hóa đã tập trung đổi mới tư duy từ “làm văn hóa” sang “quản lý nhà nước về văn hóa”, xác định quản lý nhà nước thông qua các công cụ pháp luật, cơ chế, chính sách là nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt để “khơi thông nguồn lực” và “thúc đẩy sáng tạo”; tăng cường “củng cố, xây dựng và hoàn thiện thể chế văn hóa” (1) nhằm tháo gỡ các rào cản chính sách, chuyển từ cơ chế bao cấp sang cơ chế tự chủ,tự hạch toán có sự tài trợ một phần của Nhà nước, xây dựng cơ chế đặc thù với một số lĩnh vực hoạt động văn hóa để giải phóng sức sáng tạo, khai thác các nguồn tài nguyên văn hóa và khuyến khích sự tham gia tích cực của xã hội,tạo động lực phát huy sức mạnh nội sinh của văn hóa.

Trên tinh thần “tự do sáng tác là điều kiện sống còn để tạo nên giá trị đích thực trong văn hóa, văn nghệ” (2), quá trình đổi mới thể chế theo hướng hội nhập quốc tế đã từng bước hình thành khung chính sách. Quốc hội đã ban hành các bộ Luật, Chính phủ ban hành các Nghị định để quản lý, phát triển văn hóa (3) nhằm chuyển hóa các trụ cột tài nguyên văn hóa vốn vô cùng giàu có, phong phú như: di sản văn hóa vật thể, phi vật thể, di sản thiên nhiên, loại hình nghệ thuật đặc sắc, lễ hội mới và sự kiện, các sản phẩm, dịch vụ văn hóa, các danh nhân văn hóa, các cơ sở vật chất và không gian văn hóa thành sức mạnh mềm của văn hóa Việt Nam.

Bộ trưởng Nguyễn Văn Hùng trình bày tham luận tại hội nghị – Ảnh: Tuấn Minh

Trong dòng chảy của văn hóa Việt Nam sau 35 năm đổi mới cho thấy, nhận thức về văn hóa, xã hội, con người ngày càng toàn diện, sâu sắc hơn. Tư tưởng, đạo đức và lối sống – lĩnh vực then chốt của văn hóa đã có những chuyển biến tích cực; hệ thống chính sách pháp luật về văn hóa tiếp tục được hoàn thiện, tạo điều kiện cho nhân dân tham gia tích cực vào hoạt động sáng tạo và hưởng thụ văn hoá; công tác bảo tồn, phát huy di sản văn hóa tiếp tục được quan tâm; tổ chức tốt hoạt động giao lưu, hợp tác quốc tế, quảng bá hình ảnh đất nước, con người, văn hóa Việt Nam ra thế giới. Thực tiễn đã chứng minh, những lúc đất nước khó khăn thì các giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc được khơi dậy và phát huy mạnh mẽ; lòng yêu nước, tinh thần tương thân, tương ái, sống có nghĩa, có tình, mang đậm bản sắc văn hóa Việt Nam lại càng tỏa sáng; cả dân tộc kết thành một khối thống nhất về ý chí và hành động.Văn hoá đã có những đóng góp tích cực, quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa.

Tuy nhiên, trước yêu cầu ngày càng cao của sự phát triển, lĩnh vực văn hóa còn bộc lộ một số hạn chế, bất cập: Đã xuất hiện các hiện tượng văn hóa tầm thường, dễ dãi, mang tính thị trường; các biểu hiện “lệch chuẩn” trong hưởng thụ văn hóa. Môi trường văn hóa, đạo đức xã hội, đạo đức kinh doanh, trách nhiệm nghề nghiệp, quy tắc ứng xử, văn minh công cộng chưa được xây dựng theo hướng văn hóa…Đời sống văn hóa, tinh thần ở một số nơi còn đơn điệu; khoảng cách hưởng thụ văn hóa chậm được rút ngắn; chưa có nhiều tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị cao; việc bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa còn gặp khó khăn.Cơ chế chuyển hóa hiệu quả nguồn tài nguyên văn hóa vốn rất phong phú, giàu có của Việt Nam thành sự đa dạng, giàubản sắc và có khả năng cạnh tranh quốc tế của sản phẩm, dịch vụ công nghiệp vănhóa còn thiếu đồng bộ. Một hệ sinh thái thực sự để các ngành công nghiệp văn hóatrở thành ngành kinh tế mũi nhọn, cũng như tạo ra sự cân bằng, đa dạng và bềnvững hơn cho nền kinh tế chưa đủ điều kiện để hình thành.Thể chế về văn hóa đang trong quá trình từng bước hoàn thiện, công tác cán bộ của Ngành văn hóa nói chung, đội ngũ văn nghệ sĩ -những chiến sĩ trên mặt trận văn hóa của Đảng nói riêng còn có sự bất cập.

Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế nêu trên có cả khách quan và chủ quan, trong đó nguyên nhân chủ quan là chủ yếu: (i)Nhận thức của một số cấp ủy đảng, các cấp, các ngành và một bộ phận xã hội về vị trí, vai trò của văn hóa tuy đã được nâng lên nhưng thực sự chưa đầy đủ, chưa sâu sắc;chưa quan tâm đúng mức công tác lãnh đạo, chỉ đạo và thể chế hóa các nghị quyết, chỉ thị của Đảng; (ii)Chưa thống nhất trong nhận thức và hành động về hệ giá trị văn hóa, con người Việt Nam và việc gắn kết giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường. Trong hành động còn thiếu các giải pháp có tính khả thi để con người thực sự là trung tâm của sự phát triển; (iii)Đầu tư cho văn hóa ở cả trung ương và địa phương chưa tương xứng với vai trò, vị trí của Ngành trong điều kiện phát triển chung của đất nước. Những nguyên nhân của hạn chế nêu trên có phần trách nhiệm của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch với tư cách là cơ quan quản lý nhà nước lĩnh vực văn hóa.

Kính thưa Hội nghị!

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã khẳng định:

“… Gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó phát triển kinh tế – xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên”.Phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Tăng đầu tư cho phát triển sự nghiệp văn hóa”.

Đại hội đã chỉ ra nhiệm vụ trọng tâm là:“Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hội nhập quốc tế”.

Đây là những quan điểm, nội dung hết sức quan trọng, xuyên suốt, có tính thế thừa và có nhiều điểm mới về phát triển văn hóa. Để Nghị quyết của Đảng thực sự đi vào cuộc sống, đòi hỏi phải nâng cao nhận thức, xây dựng các Kế hoạch hành động cụ thể theo hướng nền Văn hóa chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển Văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người – xây dựng con người để phát triển văn hóa.Văn hóa hiện diện ở các cấp độ vô cùng đa dạng, các nền văn hóa khác nhau sẽ có những cách thức khác nhau nhằm đạt được mục tiêu khác nhau trong chiến lược phát triển văn hóa. Nhưng có một điểm chung cốt lõi trên bản đồ văn hóa thế giới, đó là những quốc gia chuyển hóa tốt nguồn tài nguyên văn hóa thành sức mạnh mềm trong mối liên kết với các trụ cột phát triển khác luôn là các quốc gia có nền tảng vững chắc để phát triển và hội nhập quốc tế, đồng thời có khả năng ứng phó linh hoạt, hiệu quả trước những thách thức an ninh truyền thống và phi truyền thống.

Quá trình xây dựng và tiếp biến văn hóa, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ: “Với văn hóa, không có sự cao thấp, chỉ có sự đa dạng. Sức mạnh mềm của Việt Nam được thể hiện trước hết ở sức hấp dẫn, tỏa ra từ các giá trị văn hóa bao gồm các giá trị vật thể và phi vật thể, giá trị tinh thần và giá trị con người Việt Nam. Chúng ta phải phát huy được những giá trị đó để tạo nên “thương hiệu” cho quốc gia, có sức thu hút thế giới bên ngoài, góp phần nâng cao tinh thần tự tôn dân tộc, sự tự tin trong giao tiếp và quảng bá rộng rãi giá trị văn hóa của Việt Nam ra thế giới” (4).

Trong quá trình thực hiện mục tiêu phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, chúng ta đang gặpphải nhiều khó khăn, thách thức. Nhưng khó khăn, thách thức của ngày hôm nay, cũng chính là động lực thúc đẩy tìm ra sự kết nối logic giữa nguồn tài nguyên văn hóa dồi dào với quyết tâm chính trị cao, lựa chọn các giải pháp mang tính chiến lược, khả thi nhằm biến văn hóa trở thành sức mạnh nội sinh, động lực khơi dậy khát vọng xây dựng đất nước ngày càng đàng hoàng hơn, to đẹp hơn như Bác Hồ kính yêu hằng mong muốn.

Ý thức sâu sắc được trách nhiệm của mình về phát triển văn hóa mà Đảng, Nhà nước, Chính phủ giao phó, trong thời gian tới đây, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xin được kiến nghị Đảng, Nhà nước quan tâm, hỗ trợ để toàn Ngành nỗ lực, tập trung thực hiện các nội dung như sau:

Một là, Tiếp tục đi sâu nghiên cứu, nâng cao nhận thức đầy đủ, sâu sắc hơn nữa về văn hóa theo tinh thần Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 09/6/2014 và Kết luận số 76-KL/TW ngày 04/6/2020 trước hết là ở các cơ quan quản lý nhà nước về văn hóa: Làm tốt vai trò tham mưu cho các cấp ủy đảng, chính quyền để Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị. Văn hóa vừa là trụ cột, vừa là nền tảng phát triển xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước. Chúng ta cần có “Nhận thức đúng để hành động đẹp”.

Hai là, Xác định nhiệm vụ tham mưu, đề xuất xây dựng, hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách phát triển văn hóa, thể thao và du lịch là nhiệm vụ trọng tâm ưu tiên, đột phá phục vụ công tác quản lý nhà nước của Bộ, trên cơ sở xuất phát từ thực tiễn. Giai đoạn 2021-2025 và đến năm 2030 tập trung tham mưu, đề xuất xây dựng các dự án Luật, Nghị định thuộc lĩnh vực văn hóa (5).

Triển khai thực hiện Chiến lược phát triển văn hóa Việt Nam đến năm 2030 với 3 trụ cột tăng cường đầu tư, đổi mới sáng tạo và đột phá thể chế nhằm phát huy vai trò của trụ cột văn hóa gắn liền với trụ cột kinh tế, chính trị, xã hội theo hướng phát triển bền vững. Chú trọng đổi mới sáng tạo nhằm khuyến khích, phát huy tối đa các nguồn tài nguyên văn hóa, năng lực sáng tạo của toàn dân, đặc biệt là sức sáng tạo của đội ngũ văn nghệ sĩ để ngày càng có nhiều tác phẩm văn hóa, văn học, nghệ thuật có giá trị cao nhằm thực hiện nhiệm vụ xây dựng và hoàn thiện nhân cách con người Việt Nam như Nhà thơ – Tổng Bí thư Trường Chinh đã từng viết “Dùng ngòi bút làm đòn xoay chế độ – Mỗi vần thơ, bom đạn phá cường quyền”. Tôn trọng quy luật riêng của nghệ thuật để có chính sách phù hợp nhằm khích lệ, động viên, hỗ trợ cho các văn nghệ sĩ trong sáng tác, sáng tạo nghệ thuật để tác phẩm được sống mãi với thời gian, bởi “Văn học là nhân học”.

Ba là, Định hình hệ sinh thái văn hóa, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh.

– Việc tham mưu, đề xuất xây dựng thể chế theo hướng gắn văn hóa với phát triển kinh tế, chính trị, xã hội chính là giải pháp căn cốt để hình thành hệ sinh thái có khả năng thúc đẩy sự đa dạng của các biểu đạt văn hóa, tạo sự chủ động hợp tác và quảng bá các giá trị văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc của Việt Nam ra thế giới nhằm gia tăng sức mạnh mềm văn hóa, định vị “thương hiệu quốc gia”, nâng cao vị thế đất nước trên trường quốc tế, tạo dựng môi trường hoà bình, hữu nghị giữa các dân tộc và bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền của Tổ quốc.

– Tập trung xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, bảo đảm mọi thành viên của cộng đồng được phát triển các năng lực sáng tạo. Tập trung ưu tiên xây dựng văn hóa trong hệ thống chính trị, xây dựng đội ngũ cán bộ công chức có phẩm chất đạo đức tốt, ý thức thượng tôn pháp luật, xây dựng văn hóa trong từng cộng đồng làng, bản, khu phố, cơ quan, đơn vị, văn hóa doanh nghiệp và mỗi gia đình là những đơn vị văn hóa thực chất. Phát huy vai trò của gia đình, cộng đồng, xã hội trong việc xây dựng môi trường văn hóa, làm cho văn hóa trở thành nhân tố bồi đắp giá trị chân – thiện – mỹ.

Khi nhiệm vụ xây dựng văn hoá trở thành thường trực, nền tảng văn hoá được hình thành tự nhiên, tự nguyện trong mỗi cộng đồng, trong mỗi ngườithì khả năng chọn lọc cái tinh tế, tốt đẹp, định vị bản thân, giá trị, bản sắc dân tộc gắn với khát vọng hội nhập, cống hiến sẽ trở thành lá chắn mềm loại trừ cái phản cảm, phi văn hóa; “hoa thơm sẽ lấn át cỏ dại” đó chính là biểu hiện thuyết phục nhất sức mạnh nội sinh của văn hóa.

Bốn là, Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện.Sự hoàn thiện con người cần và chỉ có thể thực hiện được trong văn hóa và bằng văn hóa. Do đó, cần xác định và thực hành hệ giá trị con người Việt Nam với những phẩm chất phù hợp yêu cầu của thời đại mới như yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo và hội nhập.Đó là con người yêu lao động, giàu tình thương, trọng lẽ phải mà Tổng Bí thư Lê Duẩn đã nhiều lần khẳng định. Xây dựng và phát huy lối sống “Mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người“. Bởi lẽ thước đo của sự phát triển văn hóa chính là sự phát triển con người.

Chú trọng nhiều hơn tới mối quan hệ giữa gia đình, nhà trường và xã hội, xây dựng gia đình tiến bộ – ấm no – hạnh phúc nơi hình thành con người có văn hóa. Phải xuất phát từ tình yêu Mẹ Tổ quốc với trách nhiệm lớn lao, nghĩa cử cao đẹp vì Tổ quốc Việt Nam, dân tộc Việt Nam, đã để lại cho chúng ta kho tàng di sản và nguồn tài nguyên văn hóa vô giá, đến người mẹ của từng gia đình -những người mẹ đã trao truyền, lưu giữ văn hóa cho các con các cháu của mình bằng những việc bình dị nhưng rất đỗi cao quý thiêng liêng, từ điệu lý câu hò, làn điệu dân ca, từ điều hay lẽ phải, khuyên nhủ, đến sự hy sinh cao cả “ba lần tiễn con đi, hai lần khóc thầm lặng lẽ”. Những giá trị nhân văn đó cần được đề cao. Văn hóa nuôi dưỡng tình thương, tình thương là cội nguồn sức mạnh.

Năm là, Phát triển các ngành Công nghiệp văn hóa có trọng tâm, trọng điểm (6) để phát huy sức mạnh mềm của văn hóa Việt Nam, dựa trên sự sáng tạo, khoa học công nghệ và bản quyền trí tuệ, phấn đấu đạt mục tiêu doanh thu của các ngành công nghiệp văn hóa đóng góp 7% GDP vào năm 2030; gắn phát triển văn hóa với phát triển du lịch, đưa du lịch thành một ngành kinh tế mũi nhọn, đồng thời bảo vệ, gìn giữ tài nguyên văn hóa cho các thế hệ mai sau.

Sáu là, Quan tâm, dành nguồn lực thỏa đáng để đầu tư cho văn hóa. Văn hóa giữ vai trò điều tiết xã hội bằng hệ thống giá trị, chuẩn mực văn hoá của cộng đồng, văn hóa giữ vai trò định hướng sự phát triển của xã hội bằng mục đích nhân văn của mình và cột mốc văn hóa trong tâm trí con người luôn là cột mốc vững chắc nhất. Do vậy, đầu tư cho văn hóa là đầu tư lâu dài để hướng tới tương lai. Vì vậy kính đề nghị, Đảng và Nhà nước quan tâm, hỗ trợ và xây dựng một chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển văn hóa.

Kính thưa Hội nghị!

Mối quan tâm xuyên suốt của Đảng và Nhà nước dành cho văn hóa, cùng sứ mệnh “văn hóa soi đường cho quốc dân đi” không chỉ là niềm vinh dự, tự hào mà còn khắc sâu hơn ý thức trách nhiệm của mỗi trí thức, văn nghệ sĩ, nhà văn hóa, nhà quản lý, những người thực hành văn hóa. 

Dưới sự Lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, sự đồng thuận của Nhân dân bởi sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, Ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch tin tưởng và kỳ vọng sau Hội nghị có tính lịch sử này,văn hóa Việt Nam sẽ được đầu tư đúng mức, được phát triển có trọng tâm, có những đột phá mạnh mẽ trong việc thúc đẩy năng lực sáng tạo, giải phóng sức sản xuất, hình thành những giá trị tốt đẹp, có khả năng kết nối mạnh mẽ với các trụ cột kinh tế, chính trị, xã hội và khoa học công nghệ để trở thành động lực, mục tiêu của sự phát triển bền vững.

Cuối cùng, xin kính chúc các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các đồng chí Lãnh đạo các Ban, bộ, ngành, địa phương, các quý vị đại biểu, khách quý, các trí thức, văn nghệ sĩ, những người làm công tác văn hóa, thực hành văn hóa sức khỏe dồi dào, hạnh phúc, chúc Hội nghị thành công tốt đẹp.

Xin trân trọng cám ơn!

____________________

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, t.48, tr.484.

2. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.114.

3. Luật Di sản văn hóa 2001, Luật Sở hữu trí tuệ 2005 phần quyền tác giả, quyền liên quan, Luật Điện ảnh 2006, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình 2007, Luật Quảng cáo 2012, các Nghị định của Chính phủ về nghệ thuật biểu diễn, mỹ thuật nhiếp ảnh và triển lãm…

4. Toàn văn phát biểu của Tổng Bí thư tại Hội nghị ngoại giao lần thứ http://wwwMofahcm.gov.vn/mofa/bng_vietnam/nr160815142901/ ns160822220156.

5. Luật Điện ảnh (sửa đổi), Luật phòng, chống bạo lực gia đình (sửa đổi), Luật Di sản văn hóa (sửa đổi)… nhất là những lĩnh vực chuyên môn đã có đủ cơ sở về lý luận và thực tiễn để xây dựng Luật như Luật Nghệ thuật biểu diễn, Luật Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển lãm.

6. Điện ảnh, thời trang, quảng cáo, nghệ thuật biểu diễn, du lịch văn hóa.

Đánh giá post

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *