Trong quá trình điền dã, khảo cứu hệ thống giá trị di sản văn hóa vật thể trên địa bàn làng Thượng An, xã Phong An, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế, chúng tôi đã phát hiện tại chùa Hội Thượng (có tên khác là Niệm phật đường An Cát) đang lưu giữ những cổ vật đồng (vạc, chuông) được đúc vào thời vua Minh Mạng (1820 – 1840). Hiện nay, việc lưu giữ được những cổ vật trong dân gian là điều đáng quý; nhưng việc hiện diện chiếc vạc đồng thời Nguyễn, vốn được xem là biểu tượng quyền uy của triều đại, là vật tượng trưng cho cơ nghiệp thiên tử trong ngôi chùa cổ cũng đặt ra nhiều câu hỏi cần giải đáp. Quá trình tìm hiểu, nghiên cứu giúp chúng tôi đồng thời phát hiện ra nhiều điều thú vị về ngôi chùa cổ này.
Những cổ vật thời vua Minh Mạng
Thượng An là một ngôi làng được thành lập khá sớm, dưới thời Mạc (1527 – 1593) có tên là Thượng Lộ, thuộc huyện Đan Điền (nay là huyện Quảng Điền), phủ Triệu Phong, xứ Thuận Hóa. Trong sách Ô Châu cận lục, Dương Văn An cho biết, làng Thượng Lộ được lập trước năm 1555, là một trong 53 làng xã của huyện Đan Điền, phủ Triệu Phong thời bấy giờ (1). Danh xưng Thượng Lộ sau này đổi thành Thượng An và tồn tại cho đến ngày nay. Cũng giống như nhiều làng cổ khác ở miền Trung, làng Thượng An có chiều sâu văn hóa, lịch sử, đặc biệt nơi đây còn lưu giữ khá nhiều công trình kiến trúc tôn giáo, tín ngưỡng độc đáo; trong đó chùa làng Hội Thượng là một ví dụ cụ thể.
Cho đến bây giờ, thời điểm khởi dựng chùa Hội Thượng vẫn chưa xác định được một cách chính xác. Dựa vào thông tin dòng lạc khoản khắc trên bức hoành phi treo ở chánh điện chùa Hội Thượng: 會上寺(Hội Thượng Tự), lạc khoản bên phải (người nhìn) đề: 壬午年丙午月丙申日丙申時正柱上樑 (Nhâm Ngọ niên Bính Ngọ nguyệt Bính Thân nhật Bính Thân thời chính trụ thượng lương /Lễ thượng lương trụ chính vào giờ Bính Thân, ngày Bính Thân, tháng Bính Ngọ, năm Nhâm Ngọ). Nếu chỉ dựa vào thông tin dòng lạc khoản trên thì chưa đủ căn cứ để xác định niên đại dựng chùa, bởi lẽ, có quá nhiều năm Nhâm Ngọ trong khung giới hạn nghi ngờ, có thể là năm Nhâm Ngọ 1702.
Chùa Hội Thượng. Ảnh Nguyên Trí
Như vậy, có hai mốc để xác định niên đại xây dựng chùa Hội Thượng: sớm nhất là năm Nhâm Ngọ 1702 và muộn nhất là năm Nhâm Ngọ 1762.
Là nơi sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng của nhân dân trong làng nên chùa Hội Thượng thường xuyên được dân làng quan tâm tu sửa, giữ gìn. Trên cây xà ngang của gian giữa chánh điện có khắc dòng chữ Hán: 成泰丙午十八年癸巳月癸丑日乙卯辰崇修寺 (Thành Thái Bính Ngọ thập bát niên Quý Tỵ nguyệt Quý Sửu nhật Ất Mão thì sùng tu tự), cho biết chùa đã từng được trùng tu lớn vào đời vua Thành Thái thứ 18 năm Bính Ngọ (1906). Những năm gần đây, chùa vẫn được dân làng tiếp tục đầu tư kinh phí xây dựng thêm nhiều hạng mục khác nhưng không phá vỡ cảnh quan vốn có, nhằm đáp ứng cho nhu cầu tâm linh, tín ngưỡng của dân làng.
Một điều thú vị là các dòng chữ Hán khắc trên hoành phi và xà ngang chánh điện chùa không chỉ cho biết rõ ngày, tháng, năm mà cả giờ tốt để tổ chức lễ động thổ trùng tu tôn tạo hoặc làm lễ đặt thượng lương. Đây là trường hợp độc đáo, rất hiếm gặp trong các ngôi chùa ở Huế nói riêng và ở nước ta nói chung, chứng tỏ ngôi chùa thực sự là một công trình văn hóa tâm linh, được dân làng giữ gìn qua các thời kỳ lịch sử.
Trong khuôn viên rộng khoảng 5.000m2, chùa được xây dựng theo kiểu thức truyền thống: nhà rường ba gian hai chái, quay mặt về hướng Nam. Nội thất chùa, từ bộ khung đến hệ thống liên ba, cửa bảng khoa thượng song hạ bản đều được trang trí chạm nổi hình bát bửu, tứ thời và các kiểu hoa văn tinh xảo.
Bên cạnh việc thờ Phật, Quan Thánh, chùa Hội Thượng đồng thời cũng là nơi giữ gìn hòm bộ của làng Thượng An (gồm địa bộ, sắc phong, chúc văn…). Trong những ngày đại lễ của làng, chùa là nơi diễn ra các nghi thức trang trọng nhất: lễ nghinh hòm bộ từ chùa về đình làng để tế, sau đó rước từ đình làng về lại chùa để thờ tự, bảo quản.
Được xây dựng khá sớm ở vùng đất Thuận Hóa, chùa Hội Thượng mang đậm dấu ấn văn hóa làng xã truyền thống Việt trong mối giao lưu cộng hưởng với văn hóa tín ngưỡng bản địa, trên con đường mở đất về phương Nam của dân tộc. Tương truyền rằng, dưới triều Nguyễn, trong mỗi chuyến vi hành về phía đông bắc kinh thành, vua Minh Mạng thường xuyên ghé lại chùa Hội Thượng để cầu đảo.
Chiếc vạc đồng lưu giữ tại chùa Hội Thượng có kích thước đường kính miệng 0,93m, cao 0,8m, thuộc loại vạc 4 quai. Quai vạc được đặt thấp dưới miệng vạc và tạo hình kiểu đầu rồng. Vạc có kiểu dáng hình chum, nhỏ dần về phía đáy. Thân vạc không trang trí, chỉ có khắc dòng chữ Hán: 明命玖年造.重叁百拾柒觔(Minh Mạng cửu niên tạo, trọng tam bách thập thất cân / Đúc vào niên hiệu Minh Mạng thứ chín (năm 1828), trọng lượng 317 cân). Qua thống kê các nguồn tư liệu và khảo sát hiện trạng vạc đồng có niên đại triều Nguyễn trên đất Huế, chúng tôi nhận thấy một điều thú vị là vạc đồng chùa Hội Thượng có hình dáng, kích thước, trang trí tương đồng, thậm chí đúc cùng năm với hai trong số bốn chiếc vạc đồng đúc dưới thời vua Minh Mạng, hiện đang trưng bày trước sân điện Hòa Khiêm, lăng vua Tự Đức (2). Như vậy, vạc đồng chùa Hội Thượng có nguồn gốc từ cung đình Huế. Còn lý do tại sao nó có mặt trong ngôi chùa cổ này thì vẫn là câu hỏi cần sự bổ trợ của nhiều nguồn thông tin khác nhau, trong đó, các di vật hiện tồn trong ngôi chùa Hội Thượng là điểm mấu chốt.
Chùa Hội Thượng còn lưu giữ một chiếc đại hồng chung quý. Quai chuông được tạo dáng hình tượng rồng, hai rồng đấu lưng vào nhau tạo thành hình vòng cung. Hai đầu rồng đối xứng, miệng rồng ngậm ngọc, mũi to và hếch, mắt tròn, lông mày tạo dải dài. Chân và thân rồng nhiều vẩy. Thân chuông hình trụ đứng, vai vuông cao, miệng loe rộng. Thân được chia ô bởi các đường chỉ nổi, bốn núm gõ tương ứng với bốn mặt đông – tây – nam – bắc, ghi bốn mùa xuân – hạ – thu – đông, với mục đích xoay chuyển vị trí sau mỗi mùa để bảo vệ chuông không bị hỏng và âm thanh được đều. Thân được trang trí hoa văn cách điệu, nét chữ Hán trên chuông còn khá rõ. Chuông có tổng chiều cao (tính từ miệng chuông lên đến quai chuông) là 1m, nếu không tính quai chuông thì toàn bộ thân cao 0,8m, chu vi thân chuông, đoạn giữa thân, đo được 1,33m, chu vi gần miệng chuông là 1,64m. Trên thân chuông có văn tự khắc bằng chữ Hán: 明命柒年歲次丙戌仲秋穀日造.重貳百貳拾觔.會主武库僉事弘德侯陳文弘 (Minh Mạng thất niên tuế thứ Bính Tuất trọng thu cốc nhật tạo, trọng nhị bách nhị thập cân, Hội chủ Vũ khố Thiêm sự Hoằng Đức hầu Trần Văn Hoằng/ Chuông đúc vào mùa thu năm Bính Tuất, niên hiệu Minh Mạng thứ 7 (1826), trọng lượng 220 cân, Hội chủ là Trần Văn Hoằng, chức Vũ khố Thiêm sự, tước Hoằng Đức hầu).
Như vậy, có thể hiểu đại hồng chung tại chùa Hội Thượng là do vị Vũ khố Thiêm sự tên là Trần Văn Hoằng, tước Hoằng Đức hầu, đứng ra làm Hội chủ, vận động dân làng đúc chuông vào mùa thu năm Bính Tuất, niên hiệu Minh Mạng thứ 7 (năm 1826). Vậy nhân vật lịch sử Vũ khố Thiêm sự Trần Văn Hoằng có mối liên hệ thế nào với chùa Hội Thượng?
Lai lịch cổ vật và câu chuyện lịch sử
Theo lời kể của các vị cao niên làng Thượng An, chiếc vạc đồng tại chùa Hội Thượng đã được dân làng gìn giữ cẩn thận được gần 200 năm nay. Trước đây, do sợ thực dân Pháp trưng thu để đúc súng đạn, các vị bô lão trong làng quyết định đào một cái hố gần chùa Hội Thượng để chôn giấu vạc đồng. Nhiều đời sau đó, vị trí chôn giấu vạc đồng cũng bị lãng quên, số người biết đến câu chuyện chôn dấu vạc đồng cũng thưa dần rồi mất hẳn. Khoảng năm 1950, khi dân làng Thượng An tiến hành đào mương thủy lợi ở khu vực gần khuôn viên chùa Hội Thượng, phát hiện ẩn dưới lớp bùn lầy là chiếc vạc đồng lớn. Dân làng quyết định đặt chiếc vạc đồng vào vị trí trang trọng trong khuôn viên chùa Hội Thượng và cùng nhau giữ gìn cho đến tận ngày nay.
Hơn nửa thế kỷ đã trôi qua, câu chuyện về lai lịch chiếc vạc đồng thời vua Minh Mạng có mặt trong làng vẫn mang tính huyền thoại, truyền khẩu trong chốn dân gian. Dựa trên những tư liệu của quá trình điền dã kết hợp với tư liệu thành văn, chúng tôi đưa ra hai kịch bản lý giải về nguồn gốc hiện diện chiếc vạc đồng tại chùa Hội Thượng như sau:
Thứ nhất, do một cảnh huống lịch sử nào đó mà chiếc vạc đồng bị lưu lạc đến làng Thượng An và được nhân dân địa phương lưu giữ trong chùa làng. Dựa vào các tài liệu lịch sử vùng đất cố đô Huế, chúng ta có thể ngờ rằng sự kiện ngày 5-7-1885, khi quân Pháp đánh chiếm kinh thành Huế, giữa lúc vua Hàm Nghi và hoàng gia xuất bôn ra Quảng Trị, rồi Hà Tĩnh, quân Pháp tràn vào cướp bóc tất cả đồ đạc quý giá đang trưng bày và thờ tự trong các cung điện ở Đại Nội. Trong hoàn cảnh này, chiếc vạc đồng đã lưu lạc đến làng Thượng An và được dân làng xem như báu vật của làng. Sau đó, chiếc vạc đồng được người dân đưa vào trưng bày ở chùa Hội Thượng, vốn là nơi sinh hoạt chung của cả cộng đồng.
Thứ hai, chiếc vạc đồng là quà tặng của triều đình Huế dành cho chùa Hội Thượng và làng Thượng An. Theo lời kể của nhiều vị cao niên trong làng, chùa Hội Thượng vốn là một danh thắng đẹp nổi tiếng, cầu đảo linh ứng, nên có lần vua Minh Mạng đã chọn một ngày tốt dịp đầu năm, cùng các quan thần đến chùa Hội Thượng lễ Phật, cầu cho dân chúng no ấm, đất nước thái bình… Hẳn nhiên, nếu có sự kiện đó thực thì việc vua Minh Mạng ra lệnh cho đúc một chiếc vạc đồng để tặng chùa Hội Thượng làm minh khí trưng bày, để vừa bày tỏ lòng tôn kính Phật pháp vừa thể hiện quyền năng của vương triều, là điều rất có thể xảy ra. Trong lịch sử triều Nguyễn đã từng có sự kiện triều đình ban tặng chiếc đỉnh đồng lớn đúc từ thời vua Minh Mạng cho phủ Kiên Thái Vương vào năm 1888 (3).
Về nhân vật Trần Văn Hoằng, tại chùa Hội Thượng có thờ bài vị mang tên ông. Bài vị ghi rõ: 武库僉事弘德侯陳貴公府君神位 (Vũ khố Thiêm sự Hoằng Đức hầu Trần quý công phủ quân thần vị/ Bài vị của ngài họ Trần, chức quan Vũ khố Thiêm sự, tước Hoằng Đức hầu).
Từ xưa đến nay, bất kỳ một nhân vật nào đã được cả cộng đồng làng xã tôn vinh, thờ cúng thì chắc chắn đã có công lao to lớn với cộng đồng ấy. Có thể là công lao khai canh, khai khẩn, dạy dân nghề nghiệp mưu sinh, hoặc đơn giản là có công đức xây dựng các công trình công cộng hoặc tôn giáo, tín ngưỡng cho cả cộng đồng… Vậy phải chăng, ngài Trần Văn Hoằng là vị quan lớn quyến mộ đạo Phật, có tiền của nên đã có nhiều đóng góp trùng tu chùa, đúc chuông cho chùa Hội Thượng. Vì vậy, danh tước ngài Trần Văn Hoằng do chùa Hội Thượng thờ tự và hồng chung khắc ghi?
Sách Đại Nam thực lục có chép một số sự kiện lịch sử liên quan đến cuộc đời quan nghiệp của vị Vũ khố Thiêm sự Hoằng Đức hầu Trần Văn Hoằng, đại ý: Gia Long năm thứ 15 (1816), ông được cử làm Cai bạ Nhà đồ Bắc Thành. Một thời gian sau, ông được thăng dần lên chức Lang trung Vũ khố. Năm Minh Mạng thứ năm (1824), ông được cử trông coi việc ở Tạo tác cục. Trong khoảng thời gian làm nhiệm vụ này, Trần Văn Hoằng được xem là người có công trong việc phát triển Cục tạo tác ở Bắc Thành (4). Châu bản triều Nguyễn có đoạn chép bản kiến nghị của Trần Văn Hoằng về việc nâng cao đời sống cho lính thợ biên chế tại Cục tạo tác ở Bắc Thành: “Tổng trấn Bắc thành Lê Tông Chất kính tâu: Trần Văn Hoằng ở Cục tạo tác trình rằng: Vào năm Gia Long thứ hai, số lính thợ giỏi có 200 người, phiên chế thành 4 đội 1,2,3,4, mỗi đội 50 người chia cử canh giữ ở các kho trong cục để vâng lệnh sai phái thi hành công vụ. Đến nay chỉ còn thực số 120 người chia canh giữ các kho trong cục. Nay số lính ấy đều tâu rằng công việc nhiều mà từ trước đến nay chưa được cấp lương. Chúng thần trộm nghĩ, số lính ấy là lính thợ giỏi, hiện nay chỉ còn 120 người trực ở Cục tạo tác phân chia đi thi hành công vụ, vốn không có lương. Kính nghĩ số lính thợ này, mỗi người mỗi tháng nên cấp tiền lương là 5 mạch, gạo 1 phương để nuôi họ thi hành cộng vụ. Phụng chỉ: 80 người trực ban, mỗi người, mỗi tháng cấp 1 phương gạo” (5).
Năm Minh Mạng thứ sáu (1825), ông được thăng chức Thiêm sự Vũ khố. Đây là cơ quan cất giữ bảo quản các loại vũ khí, thiết bị của quân đội với nhiều kho tàng lớn nằm bên trong kinh thành Huế. Năm Minh Mạng thứ bảy (1826), ông được giao nhiệm vụ giữ chức Hộ lý ấn quan phòng Vũ khố… Thời điểm này, Trần Văn Hoằng đã đứng ra làm Hội chủ vận động dân làng đúc đại hồng chung cúng dường tam bảo tại chùa Hội Thượng. Năm 1827, vua Minh Mạng ban thưởng cho Trần Văn Hoằng vì đã có công trong việc trông coi đúc kim bảo, ngọc tỷ, được xem là vật thể hiện quyền lực cao nhất của nhà vua. Sách Đại Nam thực lục cũng chép sự kiện này khá rõ: “Bắt đầu đúc ấn Hoàng đế tôn thân (vuông 3 tấc 2 phân, dày 3 phân 6 ly), ấn Sắc mệnh chi bảo (vuông 3 tấc 2 phân, dày 3 phân 2 ly), đều núm hình rồng cuốn, ấn Khâm văn chi tỷ, ấn Duệ võ chi tỷ (đều vuông 2 tấc 7 phân, dày 3 phân 2 ly). Lại đúc lại ấn Trị lịch minh thời (vuông 2 tấc 8 phân, dày 3 phân 2 ly), đều núm hình rồng ngồi. Dùng vàng mười mà đúc. Sai bộ Lễ hội đồng với Nội vụ và Vũ khố coi việc đúc ấn. Đúc xong, buộc ấn bằng giây tơ vàng, thưởng cho thợ đúc 30 lạng bạc; bọn chuyên biện là giám lâm Vũ khố Trần Văn Hoằng, Nguyễn Đăng Uẩn đều được thưởng một thứ kỷ lục” (6).
Năm Minh Mạng thứ chín (1828), ông được điều chuyển sang làm Lang trung Nội vụ phủ. Đây là cơ quan quản lý việc chế tác và cất giữ những bảo vật, vật dụng của hoàng cung. Đây cũng là năm mà chiếc vạc đồng ở chủa Hội Thượng được hoàn thành. Năm Minh Mạng thứ 10 (1829), ông được vinh thăng Thị lang Nội vụ phủ (7), mang hàm Chánh tam phẩm văn ban, đứng đầu quản lý Nội vụ phủ. Trần Văn Hoằng được tiến cử giữ chức vụ này chứng tỏ ông là người tài đức nên được nhà vua và triều đình rất tin dùng…
Như vậy, chức tước của ngài Trần Văn Hoằng được ghi trên bài vị và khắc trên chuông chùa Hội Thượng trùng khớp với các sự kiện lịch sử mô tả rất rõ ràng trong chính sử.
Trở lại với giả thiết vì sao có chiếc vạc đồng ở chùa Hội Thượng, kết hợp những tư liệu lịch sử và điền dã đã nói ở trên, chúng tôi muốn đưa ra một suy luận kép: bên cạnh vẻ đẹp và sự linh ứng của ngôi chùa, việc xuất hiện chiếc vạc đồng quý giá ở đây còn nhờ vào công tác động của Trần Văn Hoằng, với vị thế đương thời của mình, tới vua Minh Mạng để nhà vua dành đặc ân ban tặng chiếc vạc đồng cho chùa Hội Thượng. Với những công lao, đóng góp lớn cho chùa Hội Thượng nên sau khi ông mất, các tộc trưởng của làng Hội Thượng đã quyết định thờ phụng bài vị Trần Văn Hoằng một cách trang trọng trong hậu điện của chùa. Hy vọng tới đây sẽ có được các tư liệu lịch sử cần thiết cho một câu trả lời rõ ràng về nguồn gốc của chiếc vạc đồng quý ở ngôi chùa cổ kính này.
Lời tạm kết
Chùa cổ Hội Thượng là một nguồn tư liệu vật chất, một dấu ấn văn hóa góp phần vào việc nghiên cứu lịch sử hình thành phong cách kiến trúc chùa làng xứ Huế trong dặm dài của kiến trúc Phật giáo Việt Nam. Cùng với hệ thống di tích lịch sử văn hóa, kiến trúc nghệ thuật trên địa bàn huyện Phong Điền, ngôi chùa cũng góp phần làm đa dạng, phong phú cho hệ thống di sản văn hóa vật thể, những chứng tích vật chất và tinh thần phản ánh sinh động về đời sống, phong tục, tập quán, tôn giáo, tín ngưỡng cũng như lịch sử phát triển và bề dày văn hóa của cộng đồng cư dân trên vùng đất Phong Điền nói riêng, tỉnh Thừa Thiên Huế nói chung.
Nếu như xảy ra kịch bản vua Minh Mạng ban tặng chiếc vạc đồng cho chùa Hội Thượng thì ý nghĩa vật thể và phi vật thể của vạc đồng sẽ tăng lên bội phần, chứ không phải là một cổ vật đơn thuần. Chuông đồng là hiện vật gốc, độc đáo, gắn liền với chùa Hội Thượng. Hiện vật phản ánh đặc trưng Phật giáo, đồng thời minh văn trên đó là sử liệu lịch sử quý, giúp cho việc nghiên cứu lịch sử chùa giai đoạn đó. Cổ vật vạc đồng và chuông đồng góp phần quan trọng làm tăng thêm các giá trị văn hóa, lịch sử của chùa Hội Thượng trong lịch sử Phật giáo xứ Huế, nhưng cũng đặt ra vấn đề cần phải bảo vệ, giữ gìn thật cẩn thận cho các thế hệ tiếp sau. Việc phát hiện vạc và chuông đồng chùa Hội Thượng minh chứng một điều rằng: Do có mối quan hệ với vua quan, hoàng thân quốc thích triều Nguyễn nên hầu hết các ngôi chùa cổ ở Huế ít nhiều đều bảo quản, lưu giữ những cổ vật, pháp khí, pháp tượng có giá trị lịch sử, văn hóa, nghệ thuật, trở thành một kho tàng vô giá về văn hóa của Phật giáo Thuận Hóa.
Còn số phận Trần Văn Hoằng cũng rất lạ kỳ, dân làng Hội Thượng thờ bài vị Trần Văn Hoằng tại chùa, danh tính ông khắc trên chuông đồng nhưng người dân trong làng không còn một ai biết bất kỳ một thông tin nào, dù là ít ỏi nhất về cuộc đời và hành trạng, đặc biệt là ngôi mộ của ông. Đây cũng là một bí ẩn của lịch sử cần được giải mã. Hy vọng trong thời gian tới, cuộc đời, sự nghiệp của Trần Văn Hoằng sẽ được tiếp tục nghiên cứu sâu hơn để góp phần làm sáng tỏ vai trò của ông đối với sự hưng thịnh của chùa Hội Thượng trong lịch sử dưới triều Nguyễn.
Vạc và chuông đồng tại chùa Hội Thượng là một hiện vật quý cần được bảo tồn, phát huy giá trị. Đây là cổ vật có giá trị về mỹ thuật, kỹ thuật và văn hóa lịch sử. Nếu tính thêm chiếc vạc đồng vừa mới phát hiện tại chùa Hội Thượng thì có thể khẳng định, đất cố đô Huế hiện nay vẫn còn lưu giữ được 16 chiếc vạc đồng độc đáo. Do trải qua nhiều biến cố thâm trầm của lịch sử, cổ vật triều Nguyễn đã bị thất lạc nhiều trong dân gian hoặc đã bị đưa ra nước ngoài, trong đó có không ít những bảo vật vô giá. Chắc chắn là ngày xưa, Huế không chỉ có chừng ấy vạc đồng. Nhưng dù sao, với số lượng 16 chiếc vạc đồng còn lại, Huế cũng có thể tự hào là một nơi hiện đang sở hữu số báu vật thuộc loại này phong phú nhất.
_______________
1. Vô danh thị, Ô châu cận lục, Dương Văn An nhuận sắc và tập thành, Bùi Lương dịch, Văn hóa Á châu xuất bản, 1961, tr.40.
2. Cụ thể, chiếc vạc đồng thứ nhất được đúc vào năm 1825, nặng 430 cân; chiếc vạc đồng thứ hai được đúc cùng năm với chiếc thứ nhất, nặng 435 cân; chiếc vạc đồng thứ ba được đúc vào năm 1828, nặng 352 cân; chiếc vạc đồng thứ tư được đúc cùng năm với chiếc thứ ba, nặng 399 cân.
3. Hiện chiếc đỉnh đồng này vẫn còn được đặt trong phủ Kiên Thái Vương (số 179, Phan Đình Phùng, thành phố Huế).
4. Lược chép từ Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập 2, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2007, tr.315-720.
5. Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước, Mục lục Châu bản triều Nguyễn, tập 1, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2010, tr.1015-1016.
6, 7. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập 2, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2007, tr.820, 826.
Nguồn : Tạp chí VHNT số 383, tháng 5-2016
Tác giả : TRẦN VĂN DŨNG
Bài viết cùng chủ đề:
Thiết kế bao bì trong xây dựng thương hiệu
Tượng chân dung trong quần thể lăng mộ thời lê – trịnh ở bắc bộ
Nghệ thuật trang trí và kiến trúc tại quần thể di tích thờ mẫu ở phủ dày