Theo thống kê của Cục Văn hóa cơ sở (Bộ VHTTDL), cho đến tháng 4-2018, cả nước đã có 8.008 lễ hội dân gian; 2.748 lễ hội tôn giáo; 1.755 lễ hội lịch sử, cách mạng; 273 lễ hội văn hóa, thể thao; 130 lễ hội ngành nghề; 83 lễ hội du nhập từ nước ngoài được thực hành hàng năm tại hầu khắp 63 tỉnh, thành, trong đó mật độ đậm đặc nhất là vùng châu thổ Bắc Bộ và Nam Bộ, theo các cấp độ, mức độ và phạm vi khác nhau.
Từ “thời điểm nóng” (chữ dùng của cố GS Đinh Gia Khánh) trong sinh hoạt cộng đồng xã hội này, nhìn vào không gian văn hóa lễ hội tại bất kỳ vùng – miền nào, cũng có thể nhận thấy, bên cạnh sự phục hồi, phát huy giá trị tích cực của các nghi lễ, trò chơi, trò diễn dân gian cùng những giá trị văn hóa phi vật thể có tác động sâu rộng đến đời sống sinh hoạt hiện tại, còn có không ít những sự kiện, hiện tượng bất cập, mang tính phản văn hóa của những hành vi/hành động nhuốm màu mê tín dị đoan (xóc thẻ, bói toán, tung tin thần bí, bịa đặt tín ngưỡng,…), thương mại hóa hoạt động nghi lễ (dịch vụ vàng mã, khấn thuê, đánh bài ăn tiền,…), bất minh hoặc quản lý lỏng lẻo di tích, lễ hội (biển lận tiền công đức, mờ ám trong tài chính, đưa người thân vào hoạt động dịch vụ tư nhân,…), hủy hoại môi trường sinh thái (xả rác bừa bãi, thay đổi cảnh quan, lấn chiếm đất đai di tích,…), gây mất an ninh trật tự (đánh nhau, trộm cắp, lừa đảo,…). Xuất phát từ thực trạng sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng – tâm linh, những năm gần đây, trên các phương tiện truyền thông đại chúng, hàng trăm bài báo, công trình khoa học, hàng chục cuộc hội thảo từ cấp quốc gia đến địa phương đã tập trung phân tích, đánh giá những nguyên nhân dẫn đến sự hiện tồn nhiều hiện tượng tiêu cực trong không gian các di tích văn hóa tín ngưỡng và lễ hội tại các địa phương. Tựu trung, từ các nghiên cứu và phản biện văn hóa đó, có thể nhận thấy, mọi phân tích, đánh giá đều chủ yếu hướng đến hai phía hợp thành chủ thể cho một lễ hội cổ truyền: Đó là đội ngũ các nhà quản lý – tổ chức và cộng đồng người dân sở tại (chủ thể văn hóa) cùng du khách hành hương. Hai mươi năm qua, nhiều cuộc hội thảo khoa học các cấp quốc tế, Trung ương, đến các cấp địa phương (tỉnh – thành, huyện – thị) đã đi sâu nghiên cứu, phân tích, đánh giá thực trạng lễ hội (chủ yếu tập trung vào lễ hội truyền thống/cổ truyền) ở Việt Nam, đặc biệt là vấn đề quản lý, tổ chức và vận hành lễ hội, mong tìm ra quy luật vận hành và phát triển tích cực của loại hình văn hóa dân gian này, phù hợp với điều kiện xã hội hiện tại và lâu dài. Chính vì thế, mục tiêu mà giới khoa học và các nhà hoạt động thực tiễn hướng đến đã đồng thuận với các chủ trương, Nghị quyết của Nhà nước về văn hóa, trong đó có Kết luận số 51-KL/TW của Bộ Chính trị ngày 22-7-2009 và các Công điện của Thủ tướng Chính phủ về Công tác quản lý và tổ chức lễ hội, làm cho các lễ hội được tổ chức nghiêm túc, bảo đảm an ninh trật tự, gìn giữ cảnh quan môi trường…
Cũng từ hiện trạng của không gian văn hóa lễ hội lâu nay, một câu hỏi được đặt ra là có những vấn đề nào đã và đang “hiện diện” trong quá trình quản lý văn hóa và việc quan tâm đến văn hóa quản lý, được thể hiện như thế nào trong nhận thức ứng xử với môi trường sinh hoạt văn hóa sôi động, đa dạng, phức tạp tại các không gian văn hóa lễ hội ở các địa phương? Đồng thời, để đạt được hiệu quả trong quá trình quản lý văn hóa ở phạm vi hoạt động của lễ hội cổ truyền cũng như các hình thức sinh hoạt lễ hội đồng đẳng với hình thức tổ chức sự kiện văn hóa khác hiện nay, liệu có khả năng xây dựng được những tiêu chí về “văn hóa quản lý” hoặc hướng tới việc xây dựng bộ Quy tắc ứng xử, song hành với việc xây dựng những mô hình quản lý, tổ chức lễ hội truyền thống chuẩn mực, khả dĩ mang tính phổ biến để ứng dụng khả thi cho quá trình “tồn tại và phát triển bền vững” hàng nghìn lễ hội dân gian ở Việt Nam, phát huy được tính tích cực và đẩy lùi tối đa các hiện tượng tiêu cực, phản văn hóa trong hoạt động lễ hội, hiện tại và lâu dài?
Khái niệm quản lý có thể hiểu là quá trình hướng đến việc sử dụng các nguồn lực để đạt mục tiêu đặt ra trong một môi trường biến động/vận động, thông qua sự tác động có kế hoạch/tổ chức của chủ thể quản lý lên đối tượng và khách thể quản lý, với các điều kiện chủ quan và khách quan khác nhau. Khi gắn với lĩnh vực văn hóa, khái niệm quản lý văn hóa trong xã hội hiện đại lại được hiểu là công việc của Nhà nước, được thực hiện thông qua việc ban hành quy chế, chính sách, tổ chức triển khai, kiểm tra và giám sát việc thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực văn hóa, đồng thời nhằm góp phần phát triển kinh tế, xã hội của từng địa phương và cả nước nói chung. Nhìn vào thực tiễn, không khó để nhận thấy, quản lý văn hóa còn được hiểu là sự tác động chủ quan bằng nhiều hình thức, phương pháp của chủ thể quản lý (các cơ quan đảng, nhà nước, đoàn thể, các cơ cấu dân sự, các cá nhân được trao quyền và trách nhiệm quản lý – gọi tắt là quan phương) đối với khách thể (là mọi thành phần/thành tố tham gia và làm nên đời sống văn hóa – gọi tắt là phi quan phương) nhằm đạt được mục tiêu mong muốn (bảo đảm văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, nâng cao vị thế quốc gia, cải thiện chất lượng sống của người dân…) (1).
Qua quá trình điền dã và nghiên cứu, chúng tôi bước đầu đã đi sâu khảo sát thực trạng hoạt động quản lý văn hóa tại một số di tích và địa phương tổ chức lễ hội mang tính phổ biến/đại diện, hiện hữu trong không gian văn hóa vùng châu thổ Bắc Bộ, khả dĩ cho phép nhận diện một số vấn đề (cả lý luận lẫn thực tiễn) liên quan đến công tác quản lý văn hóa và văn hóa quản lý đã và đang đặt ra ở Việt Nam lâu nay.
Khảo sát hệ thống di tích – lễ hội cổ truyền/truyền thống tại vùng văn hóa châu thổ Bắc Bộ (và ở mức độ nào đó, mang tính tương đồng trên phạm vi cả nước), có thể nhận diện được một số dạng (mô hình) tổ chức bộ máy quản lý đã và đang hiện diện, vận hành tại các địa phương:
– Trung tâm quản lý di tích (và danh thắng) – lễ hội.
– Ban quản lý di tích – lễ hội (có thể đã bao gồm Ban khánh tiết).
– Ban khánh tiết đảm trách quản lý, tổ chức thực hành nghi lễ và lễ hội.
– Thủ nhang kết hợp với đại diện các dòng họ đứng ra thành lập một Ban tổ chức lễ hội (đảm trách mọi khâu chuẩn bị, điều hành trong kỳ lễ hội) tại làng/thôn.
– Ban tổ chức do chủ sở hữu là tư nhân (gia đình) thành lập (với sự tham gia của người thân, thuê mướn người ngoài hoặc do quan hệ xã hội tùy theo nhu cầu công việc).
Tại không ít địa phương, Ban khánh tiết lại nằm trong nguồn nhân lực của Ban quản lý di tích – lễ hội hoặc do dân làng lựa chọn theo tiêu chí nhất định, qua mỗi kỳ thực hành lễ hội. Nhưng nhìn chung, trường hợp chỉ thành lập Ban khánh tiết, thường hiện hữu ở những di tích – lễ hội nhỏ, thuộc phạm vi một làng, có tổ chức hội làng thường niên, di tích thường chưa được xếp hạng.
Về cấp độ tổ chức quản lý, thực tiễn cho thấy, đi theo 5 dạng mô hình tổ chức quản lý di tích – lễ hội nêu trên, đã có thể nhận diện được một cách khái quát về 4 cấp độ quản lý – tổ chức lễ hội:
– Cấp độ quản lý, tổ chức (các Trung tâm hoặc Ban quản lý) do các cấp chính quyền thành lập.
– Cấp độ quản lý, tổ chức (các Ban quản lý di tích – lễ hội) mang tính kết hợp giữa chính quyền (cấp xã, phường, thị trấn) và cộng đồng (làng hoặc liên làng) thống nhất xác lập và lựa chọn nhân sự.
– Cấp độ quản lý, tổ chức do cộng đồng làng/thôn tự chọn lựa/bầu theo tiêu chí riêng.
– Cấp độ quản lý, tổ chức do tư nhân tự thành lập, điều hành (có thể phối kết hợp ở mức độ nhất định, tùy theo thời điểm nhất định với chính quyền sở tại).
Nhìn nhận một cách kết hợp giữa các dạng/ mô hình và cấp độ quản lý – tổ chức lễ hội được khái lược trên đây, soi vào thực tiễn, có thể bước đầu đánh giá được những khía cạnh mang tính tích cực cùng những bất cập, hạn chế của từng khuôn dạng tổ chức – quản lý di tích, lễ hội trong không gian văn hóa đồng bằng Bắc Bộ hiện nay.
Chỉ cần dừng lại để xem xét bước đầu sự bất cập trong mô hình quản lý, tổ chức lễ hội do các cấp chính quyền xác lập, thông qua những tư liệu thực trạng thu nhận được, liên quan đến vấn đề xây dựng kịch bản và chỉ đạo diễn trình lễ hội mang tính đại diện ngẫu nhiên, cũng có thể nhận ra không ít vấn đề cần trao đổi.
Trước hết, cho đến nay, đứng về phương diện quản lý nhà nước trong phạm vi hoạt động văn hóa, gần như toàn bộ hệ thống lễ hội dân gian tại các địa phương (trừ các di tích – lễ hội lớn, cấp quốc gia hoặc cấp đặc biệt) đều được đặt dưới sự chỉ đạo, giám sát, điều hành trực tiếp của các Phòng VHTT cấp huyện/quận/thị xã hoặc dưới sự điều hành của Ban tổ chức lễ hội do người đứng đầu chính quyền huyện/quận hoặc xã/phường làm trưởng ban. Những di tích, lễ hội có phạm vi và mức độ hoạt động tương đối lớn, lượng người tham gia đông, thường thành lập các Trung tâm quản lý di tích lịch sử – văn hóa (cấp hàm tương đương với Phòng VHTT huyện/quận hoặc thị xã; nếu ở phạm vi lớn/đặc biệt, hàm tương đương với cấp Sở VHTTDL), do cấp tỉnh hoặc thành phố ra quyết định. Thực tế cho thấy, trước khi lễ hội diễn ra, các cấp quản lý này thường/luôn là nơi xây dựng “kịch bản lễ hội” hoặc trực tiếp duyệt kịch bản từ các làng/xã gửi tới (đồng thời chỉnh sửa, uốn nắn, đề xuất các hình thức hành hội theo ý kiến chỉ đạo/bắt buộc của mình!). Cũng bởi vậy, ở không ít trường hợp, kịch bản của một lễ hội tại làng xã lại chính là sản phẩm của nhà quản lý văn hóa các huyện hoặc các Trung tâm quản lý di tích, chính quyền sở tại. Từ đó, có nguy cơ dẫn đến sự áp đặt cho cộng đồng những kịch bản mang tính phi truyền thống và thiếu tính khoa học. Và do vậy, không ít lễ hội đã bị biến tướng thành những cuộc mít tinh, kỷ niệm dưới sự phù trợ của hình thức rước kiệu và biểu diễn/diễn xướng cùng trò chơi dân gian, mà trong đó, người dân được chọn là những diễn viên do Ban tổ chức căn cứ theo kịch bản mà phân bổ, lựa chọn và hướng dẫn triển khai, còn lại đa phần cộng đồng người dân lại trở thành khán giả, với vị thế của người quan chiêm, tham dự! Chính vì thế, quá trình ứng xử với hoạt động lễ hội ở các địa phương được thể hiện qua trình độ nhận thức, mức độ am hiểu giá trị văn hóa dân gian và các biểu hiện hành vi của đội ngũ các nhà quản lý văn hóa đối với những lễ hội trong phạm vi quản lý của mình. Có một thực tế đã và đang hiện diện: Trong số các nhà quản lý văn hóa (từ cấp Trung ương đến các cấp địa phương, nhiều người vốn không được đào tạo bài bản/chuyên môn về ngành văn hóa, không nắm được nghiệp vụ của một ngành mang tính đặc thù, dịch chuyển từ công tác chuyên môn thuần túy về khoa học tự nhiên hay khoa học công nghệ – kỹ thuật, hoạt động từ công tác đoàn thể… sang vị trí của người điều hành, lãnh đạo công tác quản lý văn hóa. Thực tế đó đã và đang dẫn đến hệ quả: người lãnh đạo không nắm được bản chất đối tượng quản lý, không nhận thức được tính đặc thù của các hiện tượng văn hóa và quỹ đạo cũng như quy luật vận hành, từ đó có nguy cơ đưa ra không ít những quyết sách không phù hợp, những ứng xử văn hóa sai lệch, vô tình làm hạn chế/ ảnh hưởng tiêu cực đến sự tồn tại của di sản văn hóa nói chung.
Từ những vấn đề đã và đang đặt ra đối với việc kết hợp chặt chẽ giữa quản lý văn hóa với văn hóa quản lý trong phạm vi lễ hội cổ truyền ở Việt Nam hiện nay, có thể rút ra một số nhận thức sau đây:
Để tổ chức và quản lý tốt việc phục dựng một lễ hội truyền thống tại bất kỳ địa phương nào, cần phải thống nhất quan điểm: lễ hội dân gian (cũng như các loại di sản văn hóa phi vật thể khác), trong bất kỳ điều kiện xã hội và hoàn cảnh lịch sử nào, đều là sản phẩm sáng tạo văn hóa chung của cộng đồng, gắn chặt với di tích văn hóa và sinh hoạt tín ngưỡng của người dân. Sản phẩm văn hóa đó, trên tiến trình lịch sử, luôn là nơi gửi gắm/thể hiện quan điểm nhận thức, đánh giá lịch sử – xã hội, là niềm tin thiêng liêng, sự tôn vinh một khuôn mẫu cũng như nguyện vọng của cộng đồng thông qua chủ thể được phụng thờ và diễn xướng, là quan niệm thẩm mỹ và ý thức để giáo dục con cháu đời sau tiếp nhận, lưu truyền những giá trị lịch sử, văn hóa, được các thế hệ tiền nhân sáng tạo nên. Lễ hội cổ truyền/ truyền thống tại địa phương (làng, liên làng) vì thế, luôn là đỉnh cao, là “thời điểm nóng” của một mô thức văn hóa do một cộng đồng nhất định làm chủ sở hữu, thực hành và hưởng thụ những giá trị tinh thần được gửi gắm trong đó. “Sân khấu” lễ hội là “sân khấu” dân gian, ôm trùm toàn bộ không gian văn hóa di tích tín ngưỡng, trong đó, người dân vừa là tác giả kịch bản, vừa là diễn viên và người thưởng thức/ thụ hưởng giá trị văn hóa từ di sản của mình. Chính vì thế, lễ hội dân gian trước hết phải được trả/giao cho cộng đồng, do cộng đồng làm chủ, bảo vệ, trao truyền qua các thế hệ. Nhà nước (với đại diện là chính quyền các cấp) thực sự chỉ là “người” bảo trợ, hỗ trợ về kinh phí (nếu có), an ninh, động viên, khích lệ cộng đồng tự bảo tồn các sáng tạo văn hóa. Xuyên suốt hàng nghìn năm, nhà nước của các triều đại phong kiến đã hoàn thành xuất sắc vai trò, quan tâm giao công điền, công thổ cho dân có kinh phí thờ phụng, tế lễ và tổ chức lễ hội, ban sắc phong để khẳng định giá trị, tính thiêng các chủ điện thờ (và đồng thời cũng khẳng định uy lực của bộ máy quản lý – thống trị của triều chính), ra các điều luật để bảo tồn di tích tín ngưỡng… Trong hoạt động nghi lễ, lễ hội làng xã thông thường, các quan chức từ cấp hàng tổng đến triều đình không khi nào trực tiếp can dự, chi phối hoặc cưỡng ép thực hành nghi lễ, diễn xướng tại các lễ hội cổ truyền làng xã. Phải chăng, nhờ những cách thức quản lý vừa chặt chẽ vừa gián tiếp như vậy nên lễ hội cổ truyền cùng môi trường văn hóa truyền thống đã thể hiện được sức tồn tại bền vững nhiều trăm năm, được các thế hệ người dân trong một cộng đồng nhất định bảo vệ, kế thừa, phát huy trên tiến trình lịch sử. Không phải ngẫu nhiên, trong Công ước về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể do UNESCO ban hành năm 2003, đã khẳng định rằng, giá trị duy nhất có thể xem xét khi nói về di sản văn hóa phi vật thể phải là giá trị được gắn cho nó bởi các cộng đồng, nhóm người hay cá nhân liên quan – những người mà di sản cho họ “cảm nhận về bản sắc và sự kế tục”… Người ngoài cuộc, cho dù có là quan chức nhà nước hay chuyên gia, cũng không thể xác định được giá trị của di sản văn hóa phi vật thể (trong đó có lễ hội dân gian – tác giả nhấn mạnh) – công việc này là của bản thân cộng đồng! (2)
Đối với việc phục dựng một lễ hội truyền thống, việc xây dựng kịch bản là cần thiết cho quá trình tổ chức, điều hành. Tuy nhiên, phải nhận thấy rằng, kịch bản lễ hội truyền thống dân gian không phải là thứ “kịch bản” sân khấu hiện đại, kịch bản phục vụ cho việc tổ chức sự kiện văn hóa, mang yếu tố sáng tạo chủ quan của cá nhân. Lễ hội dân gian không phải/không nên là cuộc hành hội phục vụ một lễ kỷ niệm, mít tinh trong dân chúng, dưới sự điều hành, chỉ đạo của bộ máy công quyền. Lễ hội cổ truyền/truyền thống đó thực chất chính là một thứ sản phẩm văn hóa mang tính tổng hợp, được cộng đồng chắt lọc, sáng tạo, bồi đắp, chỉnh sửa, trao truyền trong suốt tiến trình lịch sử dựng làng/nước và giữ làng/nước, làm ăn và sáng tạo văn hóa, gửi gắm ý thức về lịch sử, xã hội, tâm thức tôn vinh các nhân vật được phụng thờ, thông qua hàng loạt biểu tượng/hệ biểu tượng văn hóa và mang tính lịch sử nhất định. Do vậy, để có được một “kịch bản” lễ hội truyền thống, nhất thiết phải có sự nghiên cứu, chắt lọc từ ít nhất 3 nguồn tư liệu chính: nguồn tư liệu từ truyền thuyết dân gian, các thần tích, văn bia, sắc phong; nguồn tư liệu từ các nhà nghiên cứu đi trước, ghi chép từ quá trình tham dự trong quá khứ; nguồn tư liệu hồi cố từ các bậc cao niên trong cộng đồng. Người biên soạn “kịch bản” trước hết phải có ý thức tôn trọng lịch sử, tôn trọng sáng tạo văn hóa trong cộng đồng, không thể/ và không nên gán ghép các sự kiện, nhân vật hiện đại vào diễn trình văn hóa trong lễ hội, không gán ghép các sự kiện, nhân vật vào chung cuộc hành hội một cách tùy tiện, phi khoa học, phá vỡ giá trị văn hóa – lịch sử vốn có của di sản văn hóa do cộng đồng sở tại hun đúc nên.
Với sự hiện diện của các Trung tâm quản lý di tích – lễ hội hoặc các Ban quản lý di tích/ Ban tổ chức lễ hội do chính quyền lập ra, cần xác định rõ vai trò, trách nhiệm trong các khâu tổ chức hoạt động sự vụ, hành chính, tập trung bảo đảm an ninh di tích, an ninh cộng đồng, hỗ trợ các khâu tổ chức mang tính sự vụ mỗi khi tiến hành lễ hội dân gian tại một địa phương nhất định. Mô hình quản lý văn hóa do Nhà nước (đại diện là các cấp chính quyền) thành lập, điều hành hiện đã và đang lộ rõ không ít vấn đề khiếm khuyết (cả về nhận thức, chuyên môn nghiệp vụ và cung cách điều hành, tổ chức lễ hội dân gian ở các địa phương). Giải pháp khả dĩ chính là có sự kết hợp chặt chẽ với đại diện cộng đồng, coi cộng đồng là chủ thể (cả về nhân lực lẫn quyền hạn) trong quá trình tổ chức, điều hành diễn trình thực hành lễ hội, đặc biệt là các lễ hội cần được phục dựng hiện nay.
Các cấp chính quyền đại diện cho Nhà nước không nên can thiệp sâu vào nội dung thực hành diễn xướng, thực hành tín ngưỡng của lễ hội truyền thống. Trong kịch bản lễ hội, không thể (hoặc không nên) dành lượng thời gian thực hành nghi lễ (dâng hương, dâng lễ, khai ấn,…) quá nhiều cho đại diện chính quyền các cấp. Có như vậy, mới đảm bảo tính toàn vẹn cho sinh hoạt nghi lễ và thực hành diễn xướng của lễ hội dân gian do cộng đồng làm chủ, tính đa dạng văn hóa và bản sắc văn hóa từng địa phương. Nếu trong trường hợp thấy sự hiện diện thực hành nghi lễ của (đại diện) chính quyền nhà nước là cần thiết, nên tổ chức/bố trí vào thời khắc trước (hoặc sau) khi diễn ra cuộc thực hành nghi lễ của cộng đồng (như lễ hội tưởng niệm anh hùng dân tộc Trương Định tại Tiền Giang đã thực hiện). Điều đó vừa đảm bảo quyền tham gia sinh hoạt tín ngưỡng cho mọi thành phần dân cư một cách dân chủ, vừa tránh được sự phản cảm, ức chế trong tâm lý, ý thức cộng đồng dân chúng. Bộ máy điều hành chính quyền, với chức trách và nhiệm vụ cùng quyền hạn của mình, chỉ nên dừng lại ở phạm vi hỗ trợ kinh phí, đảm bảo an ninh trật tự và các biện pháp phục vụ y tế cần thiết hoặc chỉ can thiệp mỗi khi nội tình sinh hoạt lễ hội có biểu hiện tiêu cực.
Những năm gần đây, thực tế cho thấy, đã và đang có hiện tượng các nhà doanh nghiệp ở một số địa phương tác động không nhỏ đến công việc của các nhà quản lý văn hóa. Ỷ thế vào kinh phí hỗ trợ/tài trợ cho địa phương tu bổ, phục dựng di tích, lễ hội, một số cá nhân đã thể hiện khá rõ sự chi phối trong phục dựng, tu bổ không gian thực hành văn hóa – tín ngưỡng, vượt ngoài tầm quản lý, kiểm soát của chính quyền và đội ngũ làm công tác văn hóa địa phương, thậm chí vi phạm Luật Di sản văn hóa, không được cộng đồng chấp thuận. Do vậy, thứ văn hóa ứng xử với di sản truyền thống như trên, trong đó có lễ hội cổ truyền, đã và đang bị nhuốm màu sắc chủ quan cùng những lợi ích (kinh tế, thương hiệu…) cá nhân, không phù hợp với truyền thống văn hóa cũng như thiết chế văn hóa xã hội hiện tại (3).
Nhìn chung, không thể có một mô hình duy nhất, độc tôn trong quản lý di tích văn hóa – lễ hội. Về phương diện quản lý, nên chăng chỉ cần xác lập các nguyên tắc hoặc tiêu chí chung, phù hợp với từng loại cấp độ di tích, lễ hội (cấp quốc gia, cấp vùng, cấp làng/xã). Không thể lấy vai trò quản lý của chính quyền hoặc chủ nhân của nguồn kinh phí tài trợ cho quá trình phục dựng, tu bổ không gian thực hành văn hóa để thay đổi diện mạo di tích, điều chỉnh cách thức thực hành di sản văn hóa phi vật thể hoặc áp đặt những “kịch bản lễ hội truyền thống” mang tính chủ quan, sân khấu hóa và theo hướng tổ chức, quản lý sự kiện văn hóa hiện đại/đương đại. Lễ hội truyền thống/cổ truyền ở Việt Nam là một hiện tượng sinh hoạt văn hóa xã hội sinh động, đa dạng, phức tạp, mang những bản sắc riêng và là đối tượng đã và đang đặt ra nhiều vấn đề hệ trọng, bức xúc, cấp thiết trong đời sống văn hóa xã hội đương đại. Lễ hội cổ truyền/truyền thống tại các làng/xã (mang tính phổ biến) là sản phẩm văn hóa của chung cộng đồng, việc làm chủ văn hóa, thụ hưởng giá trị văn hóa (cả về vật chất lẫn tinh thần) trước hết phải thuộc về cộng đồng chứ không thể thuộc về một nhóm lợi ích hoặc cá nhân nào. Hạt nhân của quá trình đoàn kết sáng tạo, thực hành, thụ hưởng và trao truyền văn hóa truyền thống, do vậy, chính là quá trình bảo tồn tính thiêng và sự trung thực, công khai, minh bạch (lựa chọn nhân sự diễn xướng – hành hội, thu – chi tiền công đức, giọt dầu và các dịch vụ khác) theo nhu cầu thẩm định, đồng thuận của cộng đồng. Chính vì thế, để bảo tồn và phát huy giá trị lễ hội dân gian một cách khoa học, bền vững, phù hợp với điều kiện xã hội hiện tại và lâu dài, việc quan tâm đến công tác tổ chức, quản lý di tích – lễ hội dân gian, phải là trách nhiệm, nhiệm vụ của toàn xã hội, của cả hệ thống thể chế lẫn nhận thức, ý thức và hành động chung của cộng đồng quốc gia đa dân tộc Việt Nam. Có đảm bảo được sự thống nhất giữa quản lý văn hóa và văn hóa quản lý, chúng ta mới có điều kiện thuận lợi để thực thi tốt nhiệm vụ “xây dựng một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc” trong điều kiện phát triển đời sống kinh tế, văn hóa, chính trị, hiện tại và lâu dài.
Xuất phát từ những nhận thức về công tác quản lý văn hóa và văn hóa quản lý đối với sinh hoạt lễ hội cổ truyền ở Việt Nam được nêu ra khái lược trên đây, có thể hướng tới việc xác lập một số nguyên tắc (được hiểu tương đồng với khái niệm quy tắc) ứng xử trong sinh hoạt lễ hội hiện nay.
Nguyên tắc có tính lý luận chung được đặt ra là, đối với từng đối tượng (lễ hội) được quản lý, cần thiết phải xây dựng những bộ quy tắc tương ứng, phù hợp với đặc trưng, tính chất của từng loại lễ hội, không đặt lễ hội trong phạm vi quản lý vào khái niệm mang tính cào bằng, xóa nhòa ranh giới giữa các hình thái sinh hoạt lễ hội khác nhau. Và như vậy, cần phải hướng đến các loại quy tắc tương ứng với từng hình thái sinh hoạt lễ hội hiện nay. Có thể tạm đề xuất, xác định một số bộ quy tắc ứng xử với lễ hội trong xã hội đương đại như sau:
– Bộ quy tắc ứng xử với lễ hội cổ truyền trong phạm vi không gian văn hóa một làng.
– Bộ quy tắc ứng xử với lễ hội cổ truyền trong phạm vi không gian văn hóa liên làng hoặc một vùng.
– Bộ quy tắc ứng xử với lễ hội cổ truyền trong phạm vi không gian văn hóa có gắn với các di tích quốc gia đặc biệt.
– Bộ quy tắc ứng xử với lễ hội lịch sử – văn hóa cách mạng.
– Bộ quy tắc ứng xử với lễ hội tôn giáo.
– Bộ quy tắc ứng xử với lễ hội hiện đại mới du nhập.
– Bộ quy tắc ứng xử với các hình thức sinh hoạt văn hóa tập thể khác.
Để giải quyết được nhu cầu xác lập các bộ quy tắc ứng xử với sinh hoạt lễ hội truyền thống và hiện đại hiện nay, theo chúng tôi, các cơ quan chức năng gắn với công tác quản lý nhà nước về phạm vi lễ hội cần thiết phải lập kế hoạch xây dựng một Đề án quản lý lễ hội truyền thống và hiện đại chung, trên cơ sở đó, tiến hành thực hiện từng dự án gắn với những hình thức sinh hoạt lễ hội tương ứng, mang tính chuyên sâu. Có như vậy, chúng ta mới hy vọng xây tạo được một bộ quy tắc ứng xử lễ hội khả dĩ, đảm bảo những cơ sở lý luận và thực tiễn, mang tính ứng dụng khả thi, đáp ứng được nhu cầu quản lý lễ hội theo đúng mục tiêu đã định, đem lại hiệu quả tích cực, phù hợp với sự vận động và phát triển của đời sống văn hóa, xã hội, hiện tại và lâu dài ở Việt Nam.
_____________
1. Tham khảo thêm: Phan Hồng Giang, Bùi Hoài Sơn (đồng chủ biên) – Quản lý văn hóa Việt Nam trong tiến trình đổi mới và hội nhập quốc tế; Nxb Chính trị quốc gia, 2012, tr. 25, 26.
2. Dẫn lại theo Frank Proschan, học giả Fulbright, trong bài trình bày tại Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam, ngày 3-1-2020: Hiểu về các khái niệm và cách tiếp cận chính đối với di sản văn hóa phi vật thể trong Công ước 2003 về Bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể.
3. Tham khảo thêm: Bùi Quang Thanh, Quản lý văn hóa và văn hóa quản lý đối với lễ hội cổ truyền ở Việt Nam hiện nay; Tạp chí Cộng sản, số 880, 2016.
Tác giả: Bùi Quang Thanh
Nguồn: Tạp chí VHNT số 428, tháng 2-2020
Bài viết cùng chủ đề:
Note ngay các trải nghiệm du lịch Huế dịp Valentine chi tiết nhất
Kinh nghiệm đi du lịch Đà Nẵng dịp tết nguyên đán 2023 chi tết A-Z
Top 11 địa điểm cho thuê xe máy Đà Lạt giá rẻ xe mới tinh 100%