Văn hóa đối ngoại quốc phòng là một một bộ phận cấu thành văn hóa đối ngoại Việt Nam, vừa thể hiện bản sắc văn hóa dân tộc, phong cách, thái độ và hành động của cán bộ đối ngoại, vừa thể hiện những giá trị phổ quát, chuẩn mực chung theo thông lệ, luật pháp quốc tế. Để xây dựng văn hóa đối ngoại quốc phòng cần phải thực hiện tổng thể nhiều biện pháp khác nhau, trong đó, cần chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại quốc phòng có đủ tài, tâm, tầm.
Văn hóa đối ngoại, vừa mang tính phổ quát, chuẩn mực, thể hiện được thông lệ, luật pháp quốc tế, lại vừa mang đặc thù truyền thống ngoại giao của dân tộc mà chủ thể ngoại giao là đại diện. Ở phạm vi hẹp, nó được hiểu là văn hóa ứng xử, giao tiếp của chủ thể tiến hành các hoạt động ngoại giao, mà ở đó các giá trị văn hóa của dân tộc thấm sâu vào tư tưởng, trí tuệ, phong cách của các tổ chức và cá nhân làm công tác đối ngoại.
Văn hóa đối ngoại có vai trò to lớn trong việc góp phần bồi dưỡng lòng yêu nước, ý chí quyết tâm bảo vệ lợi ích quốc gia – dân tộc và thắt chặt quan hệ hợp tác giữa các quốc gia có nhiều điểm chung về quyền lợi. Mặt khác, đây là vũ khí mềm dẻo, linh hoạt thúc đẩy tiến độ và sự thành công trong thương thuyết, tiếp xúc đối ngoại. Sức mạnh của nền quốc phòng toàn dân dựa trên nền tảng chiến tranh nhân dân và truyền thống dựng nước, giữ nước từ hàng nghìn năm của dân tộc ta luôn chứa đựng yếu tố văn hóa. Văn hóa đối ngoại là nền tảng trong kế sách bảo vệ tổ quốc từ xa bằng biện pháp hòa bình. Văn hóa đối ngoại phụ thuộc vào trình độ, tri thức và kinh nghiệm cũng như phẩm chất, đạo đức của các chủ thể làm công tác đối ngoại. Những yếu tố đó không tự nhiên có mà phải qua đào tạo, bồi dưỡng, tự rèn luyện qua thực tiễn.
Đối ngoại quốc phòng là hoạt động của Đảng, Chính phủ, quân đội Việt Nam với chính phủ, quân đội các quốc gia có chủ quyền và các tổ chức quốc tế về lĩnh vực quân sự, quốc phòng và những vấn đề khác mà các bên cùng quan tâm. Mục tiêu của đối ngoại quốc phòng là bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của tổ quốc; bảo vệ lợi ích quốc gia – dân tộc; bảo vệ nhân dân, Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững ổn định chính trị, môi trường hòa bình để xây dựng, phát triển đất nước; góp phần xây dựng lòng tin, củng cố và thắt chặt quan hệ giữa Việt Nam với các nước, các tổ chức quốc tế; tranh thủ các nguồn lực từ bên ngoài để xây dựng quân đội nhân dân, củng cố và tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh của đất nước. Đây còn là kênh trực tiếp giải quyết những nguy cơ về quốc phòng và xung đột quân sự, vì thế, nó được coi là phương thức bảo vệ tổ quốc ngay trong thời bình, bằng biện pháp hòa bình.
Văn hóa đối ngoại quốc phòng Việt Nam là một bộ phận cấu thành văn hóa đối ngoại Việt Nam, “nền văn hóa đối ngoại hòa bình, hữu nghị, hợp tác, cùng phát triển, tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng” (1) thể hiện thái độ, tinh thần, phong cách, trách nhiệm đối với các cam kết và hiệu quả làm việc, hợp tác của Việt Nam với các đối tác. Các giá trị văn hóa của dân tộc, quân đội và môi trường văn hóa tốt đẹp là nguồn gốc sinh ra, nuôi dưỡng và phát triển đội ngũ cán bộ đối ngoại quốc phòng có tài năng, bản lĩnh chính trị, đạo đức cách mạng, hiểu sâu về văn hóa Việt Nam, quân đội và văn hóa thế giới, nắm vững chính sách đối ngoại, giỏi về kỹ năng chuyên môn, nghiệp vụ, nhuần nhuyễn về nghệ thuật ứng biến, xử trí trong quan hệ xã hội, đặc biệt là trong quan hệ quốc tế. Tất cả những điều đó tạo nên phong thái ngoại giao.
Trong hội nhập quốc tế về quốc phòng, không ai buộc chúng ta phải cam kết và phải tham gia quá khả năng của mình. Chính lợi ích quốc gia, dân tộc là cơ sở khoa học để Đảng hoạch định đường lối, chiến lược hội nhập quốc tế, trong đó có hội nhập quốc tế về quốc phòng. Khi hội nhập quốc tế về quốc phòng, Việt Nam sẵn sàng cam kết và thực hiện với tinh thần, trách nhiệm cao vì hòa bình, lợi ích quốc gia, dân tộc nhưng tôn trọng lợi ích của đối tác, khu vực và không làm phương hại đến nước thứ ba.
Trong những năm qua, hoạt động đối ngoại quốc phòng không ngừng được mở rộng, phát triển trên nhiều lĩnh vực, cả về bề rộng và chiều sâu, góp phần quan trọng bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và các lợi ích quốc gia, dân tộc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và giữ vững ổn định chính trị; đồng thời, kiến tạo, gìn giữ môi trường hòa bình để xây dựng và phát triển đất nước; phẩm chất, năng lực, trình độ, tác phong của đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại quốc phòng từng bước được nâng cao đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ. Đây là bước phát triển của đối ngoại quốc phòng Việt Nam trong tiến trình hội nhập sâu, rộng vào đời sống khu vực và quốc tế, nhằm tăng cường hợp tác, xây dựng, củng cố lòng tin chiến lược với các nước, các tổ chức quốc tế, nâng cao vị thế, uy tín của đất nước, quân đội trên trường quốc tế.
Trong quá trình hội nhập quốc tế, để hoạt động đối ngoại quốc phòng đi vào chiều sâu, thực chất, cũng như để học hỏi được nhiều hơn từ phía các đối tác, đòi hỏi người cán bộ, sĩ quan làm công tác đối ngoại nói riêng và cán bộ, chiến sĩ trong toàn quân nói chung cần phải có ý thức cầu thị, khiêm tốn, làm việc khoa học và ứng xử nhân văn. Tuy nhiên, trong quá trình hội nhập, tương tác với thế giới bên ngoài, bên cạnh việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, chúng ta cần phải tiếp thu những giá trị văn hóa tiến bộ của các nước khác, qua đó góp phần xây dựng văn hóa đối ngoại quốc phòng Việt Nam, một bản sắc văn hóa có khả năng tương thích và hội nhập sâu rộng với thế giới.
Xây dựng văn hóa đối ngoại quốc phòng đòi hỏi cần phải quán triệt và thực hiện nghiêm túc theo đúng đường lối đối ngoại của Đảng, đó là “bảo vệ lợi ích tối cao của quốc gia, dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi, thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế” (2), với tinh thần “chủ động, tích cực tham gia các cơ chế đa phương về quốc phòng, an ninh, trong đó có việc tham gia các hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc, diễn tập về an ninh phi truyền thống và các hoạt động khác” (3).
Điều đó đòi hỏi cần phải có chiến lược xây dựng và phát triển lực lượng làm công tác đối ngoại quốc phòng, bảo đảm đồng bộ từ công tác tuyển chọn, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện đến sử dụng cán bộ; trong đó, chú trọng xây dựng bản lĩnh chính trị, phương pháp tư duy, phương thức ứng xử; trình độ, năng lực tổ chức hoạt động thực tiễn, kỹ năng ngoại giao và ngoại ngữ giỏi. Sớm bổ sung, hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến hội nhập quốc tế về quốc phòng, coi đó là công cụ, cơ sở pháp lý, đảm bảo các hoạt động hội nhập quốc tế về quốc phòng được triển khai đúng quy định của pháp luật, phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế. Đặc biệt, coi trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu và nâng cao, theo hướng có các chuyên gia về từng khu vực, quốc gia, tổ chức, có thể vào làm việc tại các tổ chức quốc tế và khu vực có liên quan đến quốc phòng; có khả năng tham mưu, đề xuất và triển khai thực hiện các nội dung lớn và lâu dài với các nước, khu vực, tổ chức; nâng cao trình độ, năng lực hoạch định và thực hiện chính sách đối ngoại quốc phòng.
Do ảnh hưởng của nền kinh tế nông nghiệp, tác phong làm việc, công tác của một bộ phận không nhỏ người Việt Nam còn mang tính tự do, tự phát, thiếu chuyên nghiệp và thiếu kỹ năng làm việc nhóm. Đó là một trong những rào cản, đồng thời là một trong những nguyên nhân làm việc hạn chế hiệu quả hoạt động, công tác. Vì vậy, đổi mới phong cách làm việc, đòi hỏi chúng ta phải rèn luyện tác phong làm việc đúng giờ, đúng hẹn, đi thẳng vào vấn đề, làm việc và triển khai các hoạt động theo một quy trình chuẩn quốc tế. Khi đã cam kết, chúng ta cần và phải có thái độ nghiêm túc trong việc thực hiện các cam kết, thể hiện tinh thần thực tâm hợp tác vì hòa bình, cam kết đi đôi với hành động, vì lợi ích của mình nhưng tôn trọng lợi ích của đối tác, lợi ích chung của khu vực và không làm phương hại đến lợi ích của nước thứ ba.
Để hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ của mình và từng bước tiến tới chuyên nghiệp hóa các nhà ngoại giao trong lĩnh vực đối ngoại quốc phòng, đòi hỏi người cán bộ đối ngoại quốc phòng không chỉ hiểu biết về lịch sử, văn hóa và nghệ thuật của dân tộc mình mà còn cả văn hóa dân tộc nước bạn thì mới tạo được cầu nối giữa văn hóa Việt Nam với các nền văn hóa khác, tránh những sự cố do khác biệt văn hóa. Đồng thời, mỗi cán bộ đối ngoại cần am hiểu và vận dụng nhuần nhuyễn năm cái biết (ngũ tri) của triết lý phương Đông: biết mình, biết người, biết thời thế, biết dừng, biết biến vào trong hoạt động đối ngoại quốc phòng.
Vì thế, để thực hiện có hiệu quả công tác này, việc xây dựng và phát triển văn hóa đối ngoại quốc phòng ngày càng trở nên quan trọng, đây là cơ sở để tăng cường uy tín, vị thế, ảnh hưởng của đất nước và quân đội trên trường quốc tế, đưa Việt Nam trở thành một trong những thành viên nòng cốt, giữ vai trò quan trọng trong các cơ chế hợp tác quốc phòng của khu vực, cũng như góp phần từng bước đưa các quan hệ quốc tế đi vào chiều sâu, thực chất và xây dựng, củng cố lòng tin chiến lược với các nước, các tổ chức quốc tế.
______________
1. Chiến lược văn hóa đối ngoại của Việt Nam đến năm 2020 và tầm nhìn đến 2030 (ban hành theo Quyết định số 210/QĐ-TTg ngày 8-2-2015 của Thủ tưởng Chính phủ), tr.6.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.153.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, sđd, tr.155
Nguồn : Tạp chí VHNT số 401, tháng 11 – 2017
Tác giả : NGUYỄN NĂNG NAM
Bài viết cùng chủ đề:
Năng lực phản biện khoa học của giảng viên trong nhà trường quân đội
Thế giới quan và phương pháp luận của giảng viên trẻ trong các trường quân đội
Sự chuyển đổi sinh kế của người dân nà lầu, lạng sơn