Cách mạng công nghiệp 4.0 và sự phát triển công nghiệp văn hóa ở Việt Nam hiện nay

1. Khái quát về cách mạng công nghiệp 4.0

Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, hay cách mạng công nghiệp 4.0 (CMCN 4.0) xuất phát từ khái niệm Industrie 4.0 trong một báo cáo của Chính phủ Đức năm 2013, nói tới chiến lược công nghệ cao, điện toán hóa ngành sản xuất mà không cần sự tham gia của con người. “CMCN 4.0 là kỷ nguyên công nghiệp lớn lần thứ tư kể từ cuộc cách mạng công nghiệp lần đầu tiên từ TK XVIII. CMCN 4.0 có thể được mô tả như là sự ra đời của một loạt các công nghệ mới, kết hợp các kiến thức trong lĩnh vực vật lý, kỹ thuật số, sinh học và ảnh hưởng đến tất cả các lĩnh vực, nền kinh tế, các ngành kinh tế và ngành công nghiệp. Trung tâm của cuộc cách mạng này đang nổi lên những đột phá công nghệ trong các lĩnh vực như trí tuệ nhân tạo, robot, internet vạn vật, xe tự lái, công nghệ in 3D và công nghệ nano” (1).

Có thể nói, những lĩnh vực chủ yếu trên của CMCN 4.0 đã tác động vô cùng mạnh mẽ đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có công nghiệp văn hóa (CNVH) – ngành công nghiệp chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi các thành tựu của khoa học công nghệ.

2. CMCN 4.0 và sự phát triển CNVH ở Việt Nam

UNESCO quan niệm: CNVH là một thuật ngữ chỉ các ngành công nghiệp mà có sự kết nối giữa sáng tạo, sản xuất và thương mại hóa các sản phẩm văn hóa (vật thể và phi vật thể), và các nội dung sáng tạo được bảo vệ bản quyền.

Ở Việt Nam, phải đến những năm đầu TK XXI, CNVH mới được bàn đến trong một vài công trình nghiên cứu. Chiến lược phát triển các ngành CNVH ở Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030 (năm 2016) đã xác định: “Phát triển các ngành CNVH Việt Nam bao gồm: quảng cáo; kiến trúc; phần mềm và các trò chơi giải trí; thủ công mỹ nghệ; thiết kế; điện ảnh; xuất bản; thời trang; nghệ thuật biểu diễn; mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm; truyền hình và phát thanh; du lịch văn hóa trở thành những ngành kinh tế dịch vụ quan trọng, phát triển rõ rệt về chất và lượng, đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế và giải quyết việc làm thông qua việc sản xuất ngày càng nhiều sản phẩm, dịch vụ văn hóa đa dạng, chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu sáng tạo, hưởng thụ, tiêu dùng văn hóa của người dân trong nước và xuất khẩu; góp phần quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam; xác lập được các thương hiệu sản phẩm, dịch vụ văn hóa; ưu tiên phát triển các ngành có nhiều lợi thế, tiềm năng của Việt Nam” (2).

Qua đó, có thể rút ra một số đặc trưng như sau: CNVH là ngành sản xuất ra các sản phẩm văn hóa dựa trên sự sáng tạo của cá nhân trên cơ sở sử dụng các thành tựu khoa học, kỹ thuật, công nghệ hiện đại; CNVH là sản phẩm của sự sáng tạo, vì vậy, nó phải được bảo vệ bởi Luật sở hữu trí tuệ; Các sản phẩm của ngành CNVH phải hướng tới phục vụ số đông; Các sản phẩm của ngành CNVH được kinh doanh, trao đổi nên gắn bó mật thiết với thị trường.

Như vậy, ngành CNVH đã và đang phát triển phụ thuộc nhiều vào những thành tựu của cuộc CMCN 4.0. Những tác động của cuộc cách mạng này diễn ra trên cả hai phương diện: thời cơ và thách thức.

Về thời cơ

CMCN 4.0 dựa trên nền tảng công nghệ thông tin, kỹ thuật số, internet, sự kết nối toàn cầu ở nhiều tầng bậc, nhiều lĩnh vực trong cùng một lúc. Nhờ đó, sự kết nối, tầm giao lưu, giao tiếp giữa con người với con người trong xã hội được mở rộng. Công nghệ số đã làm biến đổi chuỗi giá trị văn hóa tạo ra những thay đổi mang tính tương tác đa chiều trong từng khâu sáng tạo, sản xuất, phân phối, tiêu dùng và hưởng thụ sản phẩm. Sự tương tác và nền tảng số cho phép người sản xuất dễ dàng nắm bắt thị hiếu, nhu cầu của công chúng để sáng tạo và điều chỉnh tác phẩm.

Một trong những đặc trưng của ngành CNVH là sản xuất ra hàng loạt sản phẩm văn hóa để hướng tới phục vụ số đông và các sản phẩm đó được mua bán, trao đổi trên thị trường. Khách hàng trở thành “thượng đế”, được chú trọng tìm hiểu nhu cầu, sở thích, thị hiếu vốn đa dạng và phong phú. Hơn bất cứ kênh nào, sự tương tác đa chiều từ công nghệ số, internet, mạng truyền thông xã hội… đã giúp cho những người sáng tạo, sản xuất hiểu được khách hàng muốn gì để đáp ứng. Trong xã hội thông tin toàn cầu, hàng loạt thông tin về lĩnh vực CNVH, giải trí, lễ hội, điện ảnh, biểu diễn nghệ thuật, du lịch văn hóa… đang hướng tới đáp ứng nhu cầu đa dạng, sinh động của công chúng. Xã hội thông tin đưa lại những cơ hội thuận lợi, kích thích sức sáng tạo năng động cho sự phát triển CNVH.

Bên cạnh đó, Việt Nam có thể sử dụng trí tuệ nhân tạo để khai thác, tìm kiếm thông tin, học hỏi kinh nghiệm phát triển CNVH của các nước trên thế giới. Từ đó, xây dựng dữ liệu số của các ngành, chẳng hạn như di sản văn hóa, áp dụng phần mềm quản lý cơ sở dữ liệu khai thác văn hóa; xây dựng ngân hàng dữ liệu dạng số gồm hồ sơ khoa học về di sản, dữ liệu hồ sơ số, cơ sở dữ liệu in 3D, ảnh chụp, băng, đĩa ghi hình… Qua đó, có thể quảng bá rộng rãi trong nước và quốc tế những di sản văn hóa vật thể và phi vật thể của Việt Nam, tạo những dịch vụ thuận lợi để phát triển du lịch.

Công nghệ số sẽ giúp đẩy mạnh phát triển dịch vụ du lịch trên toàn quốc, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, biển đảo. Dùng thông tin mạng, kỹ thuật số để tuyên truyền, quảng bá cho thế giới biết về văn hóa Việt Nam, tạo tiền đề cho hợp tác kinh tế lâu dài…

Việt Nam có thể sử dụng môi trường công nghệ để phát triển ngành công nghiệp quảng cáo và phát thanh truyền hình. Công nghệ mới có thể tạo điều kiện để sản xuất sản phẩm, dịch vụ rẻ hơn với chất lượng cao hơn, làm cho sản phẩm có khả năng cạnh tranh tốt hơn.

Về thách thức

Bên cạnh những mặt tích cực mà cuộc CMCN 4.0 mang lại, trào lưu xã hội thông tin và văn hóa đại chúng phát triển ồ ạt đã làm rối loạn thị trường trong nước, làm cho ngành CNVH lúng túng trong việc lựa chọn mục tiêu và định hướng phát triển. Tình trạng vi phạm bản quyền và sở hữu trí tuệ trong môi trường số diễn ra phổ biến; người dân chưa hình thành được thói quen sử dụng, tiêu dùng sản phẩm văn hóa có bản quyền. Đây là một trong những thách thức lớn cần phải tìm giải pháp ngăn chặn, nếu không ngành CNVH khó có thể tồn tại.

Mặt khác, môi trường công nghệ là một trong những yếu tố rất năng động, chứa đựng nhiều thách thức. Trước tiên, công nghệ mới sẽ làm xuất hiện và tăng cường ưu thế cạnh tranh của các sản phẩm thay thế, đe dọa các sản phẩm, dịch vụ truyền thống. Đồng thời, sự bùng nổ của công nghệ mới sẽ làm cho công nghệ hiện hữu bị lỗi lời, đòi hỏi các doanh nghiệp phải đổi mới. Nó làm cho vòng đời công nghệ có xu hướng rút ngắn lại, làm tăng thêm áp lực phải rút ngắn thời gian khấu hao so với trước…

3. Định hướng và giải pháp phát triển CNVH trong bối cảnh CMCN 4.0

CNVH đóng vai trò vô cùng quan trọng trong phát triển kinh tế, nâng cao vị thế, ảnh hưởng của văn hóa Việt Nam đến với bạn bè quốc tế, vì vậy, thời gian gần đây, đã có khá nhiều các văn kiện, nghị quyết định hướng phát triển CNVH, nhất là trong bối cảnh CMCN 4.0

Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI (2014) của Đảng chủ trương: “phát triển CNVH nhằm khai thác và phát huy những tiềm năng và giá trị đặc sắc của văn hóa Việt Nam; khuyến khích xuất khẩu sản phẩm văn hóa, góp phần quảng bá văn hóa Việt Nam ra thế giới” (3). Văn kiện Đại hội XII của Đảng nêu rõ: “Phát triển CNVH đi đôi với xây dựng, hoàn thiện thị trường dịch vụ và sản phẩm văn hóa. Có cơ chế khuyến khích đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật và công nghệ tiên tiến để nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ văn hóa. Tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp văn hóa, văn nghệ, thể thao, du lịch thu hút các nguồn lực xã hội để phát triển. Đổi mới, hoàn thiện thể chế, tạo môi trường pháp lý thuận lợi để xây dựng, phát triển thị trường dịch vụ, sản phẩm văn hóa lành mạnh; đẩy mạnh phát triển công nghiệp văn hóa; tăng cường quảng bá văn hóa Việt Nam” (4).

Nghị quyết của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc CMCN 4.0 đã đưa ra chính sách phát triển các ngành và công nghệ ưu tiên. Trong đó tập trung phát triển các ngành ưu tiên có mức độ sẵn sàng cao như: công nghiệp công nghệ thông tin, điện tử – viễn thông, an toàn an ninh mạng và CNVH số.

Một số giải pháp ứng dụng công nghệ 4.0 để phát triển CNVH:

Thứ nhất, tăng cường “ứng dụng thành tựu khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại trong sáng tạo, sản xuất, phổ biến, lưu giữ các sản phẩm văn hóa và nâng cao chất lượng dịch vụ văn hóa; thực hiện đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của các ngành CNVH gắn với ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại; nâng cao hàm lượng khoa học kỹ thuật trong chuỗi sản xuất sản phẩm, dịch vụ của các ngành CNVH” (5).

Thứ hai, nghiên cứu, đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật để sẵn sàng ứng dụng công nghệ cao, công nghệ tự động hóa, công nghệ vật liệu trong hoạt động của các lĩnh vực như điện ảnh, nghệ thuật biểu diễn, mỹ thuật. Thực hiện chiến lược “đi tắt đón đầu” hợp lý, nhằm tạo sự bứt phá mạnh mẽ trong việc xây dựng nền CNVH hiện đại mang bản sắc Việt Nam.

Thứ ba, đẩy mạnh đổi mới công nghệ và triển khai mạnh mẽ, rộng rãi các công nghệ mới phục vụ công tác quản lý nhà nước về văn hóa. Nhằm khai thác thế mạnh của di sản trong thời đại công nghệ số, cần“ứng dụng những thành tựu của cuộc CMCN 4.0 vào các hoạt động bảo tồn di sản văn hóa Việt Nam như mở rộng việc triển khai dự án thông tin địa lý GIS tại các khu di tích; bảo quản, tu sửa di tích và di vật bằng phương tiện và công nghệ hiện đại; ứng dụng khoa học công nghệ trong việc tạo lập và khai thác chức năng trung tâm thông tin của bảo tàng và di tích, trong việc tổ chức hệ thống trưng bày của bảo tàng…” (6).

Thứ tư, đào tạo nguồn nhân lực có thể tiếp cận, ứng dụng và ứng phó với xu thế phát triển của cách mạng CMCN 4.0. Trong bất cứ lĩnh vực nào, nguồn nhân lực cũng đóng vai trò hết sức quan trọng, phát triển CNVH trong thời đại CMCN 4.0 lại càng quan trọng. Cần phải đào tạo và phát huy nguồn nhân lực có kiến thức chuyên môn và kỹ năng về công nghệ thông tin, về ngoại ngữ; kỹ năng quản lý, kinh doanh, liên kết, phối hợp, nắm bắt tốt những xu hướng công nghệ mới.

Để phát triển ngành CNVH trong thời đại CMCN 4.0 thiết nghĩ, nước ta cần phải tận dụng thời cơ, nắm rõ thách thức, thực hiện đồng bộ các giải pháp nêu trên. 

_____________

1. vi.wikipedia.org

2, 5. thuvienphapluat.vn

3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn hiện Hội nghị lần thứ 9 Ban chấp hành Trung ương khóa XI, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2014, tr.56.

4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr.130.

6. baovanhoa.vn

Tác giả: Nguyễn Thị Kim Liên

Nguồn: Tạp chí VHNT số 429, tháng 3-2020

Đánh giá post

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *