Cơ chế, chính sách trong đào tạo, phát triển nhân lực ngành VHTTDL


Nghị quyết số 33/NQ-TW ngày 9-6-2014 của Hội nghị Trung ương 9 khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước xác định: “Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân – thiện – mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Để đạt được mục tiêu ấy, nhân lực đóng vai trò quyết định. Một trong 3 đột phá chiến lược giai đoạn 2011-2020 là phải “phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao”. Những năm qua, công tác phát triển nhân lực văn hóa, thể thao và du lịch (VHTTDL) đã được đạt nhiều kết quả, đóng góp tích cực vào sự nghiệp phát triển ngành và đất nước.

 

     1. Những thành tựu

     Một trong những nguyên nhân đưa đến thành công là Đảng và Nhà nước rất quan tâm và có những chủ trương, chính sách đúng đắn phát triển giáo dục, đào tạo và sử dụng nhân tài, nhân lực VHTTDL, bước đầu hình thành một hệ thống cơ chế, chính sách về phát triển nhân lực VHTTDL và được thể chế hóa bằng các văn bản quy phạm pháp luật. Nhiều chính sách, cơ chế khuyến khích phát triển nhân lực, trong đó có những chính sách đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, xây dựng và phát triển đội ngũ giáo viên… được ban hành và thực hiện có kết quả.

     Chính phủ đã ban hành những chính sách thực hiện xã hội hóa đào tạo nhân lực, chính sách khuyến khích và thúc đẩy tăng quy mô đào tạo nhân lực ở tất cả các cấp trình độ, từng bước điều chỉnh bất hợp lý trong cơ cấu đào tạo và cơ cấu nhân lực. Đồng thời, khuyến khích tăng quy mô đào tạo ở nước ngoài bằng nhiều nguồn kinh phí: ngân sách nhà nước, vốn ODA cho đào tạo; khuyến khích du học tự túc; khuyến khích và tạo điều kiện để các tổ chức kinh tế, chính trị xã hội, các hội gửi người đi học ở ngoài nước.

     Chính phủ cũng thực hiện tăng chi ngân sách nhà nước cho giáo dục, đào tạo VHTTDL, đặc biệt là tăng nhanh chi ngân sách nhà nước cho các trường văn hóa nghệ thuật, thể thao trực thuộc Bộ VHTTDL để nâng cao chất lượng đào tạo, huấn luyện; từng bước hiện đại hóa cơ sở vật chất kỹ thuật, trang thiết bị, tăng cường năng lực đào tạo, nghiên cứu, huấn luyện cho các trường, trung tâm huấn luyện quốc gia và các viện thuộc Bộ.

     Bên cạnh đó, Chính phủ, Bộ VHTTDL tập trung đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, phẩm chất đạo đức đội ngũ cán bộ, công chức, nhân lực khoa học công nghệ, đội ngũ nhà giáo, doanh nhân và ưu tiên đào tạo, bồi dưỡng nhân lực VHTTDL là đồng bào các dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa; xây dựng và thực hiện chính sách, cơ chế xã hội hóa giáo dục, đào tạo VHTTDL để huy động các nguồn lực trong và ngoài nước và thu hút rộng rãi sự tham gia của doanh nghiệp, nhân dân, tổ chức xã hội…

     Đồng thời, các chính sách nâng cao hiệu quả sử dụng và khuyến khích phát triển nhân lực VHTTDL; từng bước cải tiến hệ thống tiền lương và bảo hiểm xã hội đối với người lao động; mở rộng và tăng cường các hình thức tôn vinh, đãi ngộ người tài và có nhiều cống hiến cho xã hội đã được thực thi, tạo nên những thành công đáng ghi nhận trong phát triển nhân lực VHTTDL.

     2. Những hạn chế

     Tuy vậy, để phù hợp với đòi hỏi cấp thiết của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế tri thức, công tác phát triển nhân lực VHTTDL còn có những bất cập như thiếu tính chuyên nghiệp, thiếu nhân lực có kỹ năng và trình độc huyên môn cao, cơ cấu chưa hợp lý; quản lý và sử dụng nhân lực chưa tốt; đào tạo chưa sát thực tiễn… chưa theo kịp yêu cầu phát triển văn hóa, thể thao và du lịch theo định hướng của Đảng và Nhà nước.

     Thứ nhất, sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng trong xây dựng, tuyên truyền phổ biến và tổ chức thực hiện chính sách phát triển nhân lực VHTTDL chưa thường xuyên chặt chẽ; tổ chức quản lý phát triển nhân lực còn phân tán, thiếu sự phối hợp dẫn đến chồng chéo, bỏ sót, buông lỏng làm giảm hiệu lực và hiệu quả quản lý. Bộ máy quản lý nhà nước về giáo dục nghề nghiệp lĩnh vực du lịch ở địa phương còn thiếu về số lượng và yếu về chất lượng, chưa tương xứng với nhiệm vụ.

     Thứ hai, thiếu những quy định và cơ chế phối hợp, liên kết giữa cơ quan quản lý với cơ sở đào tạo và cơ sở sử dụng nhân lực, cơ sở đào tạo còn biểu hiện độc quyền, chưa gắn với nhu cầu xã hội, cơ sở sử dụng nhân lực không quan tâm thỏa đáng đến đào tạo, bồi dưỡng nhân lực; cơ chế tạo cạnh tranh trong đào tạo còn thiếu nên chậm nâng cao chất lượng đào tạo, người có nhu cầu đào tạo chịu thiệt thòi, chưa kiểm soát được chất lượng đào tạo và chưa thực hiện được vai trò định hướng đào tạo, liên kết đào tạo và sử dụng nhân lực, chưa có hệ thống thông tin đầy đủ và chính xác về thị trường lao động làm cơ sở để quản lý các hoạt động đào tạo…

     Thứ ba, các chính sách chỉ mới tập trung khuyến khích tăng nhanh quy mô đào tạo trong khi điều kiện đào tạo không đảm bảo, chưa quan tâm cải thiện cơ cấu, nâng cao trình độ, chất lượng đào tạo, nên chất lượng nhân lực giảm sút; chưa có chính sách dài hạn về cơ cấu đào tạo theo cấp trình độ và cơ cấu ngành, nghề, việc giao chỉ tiêu đào tạo và phân bổ kinh phí đào tạo từ ngân sách nhà nước theo kế hoạch hằng năm có tác dụng khuyến khích tăng nhanh quy mô đào tạo đại học – cao đẳng, nhưng chưa quan tâm và tập trung tăng đào tạo nghề.

     Thứ tư, nhiều chính sách còn biểu hiện sự bao cấp, nên các cơ sở đào tạo công lập tiếp tục ỷ lại, trông chờ nguồn kinh phí cấp phát; cơ chế cấp ngân sách nhà nước cho đào tạo nhân lực VHTTDL chậm đổi mới; định mức thấp và chậm được sửa đổi, bổ sung, nên không đảm bảo chất lượng đào tạo; chậm xây dựng và ban hành những chính sách, cơ chế đổi mới cơ sở đào tạo công lập hoặc nếu có thì triển khai rất chậm.

     Thứ năm, chưa có chính sách đủ mạnh để khuyến khích phát triển đào tạo ngoài công lập, do đó chưa huy động được tiềm lực và chưa khuyến khích phát triển rộng rãi các hình thức đào tạo nhân lực VHTTDL gắn với yêu cầu của thị trường lao động; giáo dục hướng nghiệp chưa tốt và do đặc điểm tâm lý thích học đại học, cao đẳng, nên không chuyển dịch được cơ cấu đào tạo, nhất là trong du lịch; không khuyến khích được đào tạo các ngành kỹ thuật phục vụ cho văn hóa nghệ thuật, thể thao và du lịch, lại thả nổi việc đào tạo các ngành kinh tế, khoa học xã hội, ngoại ngữ… làm cho cơ cấu đào tạo theo trình độ kỹ năng và cơ cấu nghề nghiệp ngày càng mất cân đối.

     Thứ sáu, chưa có chính sách thỏa đáng và hiệu quả để gắn đào tạo với sử dụng nhân lực và nghiên cứu khoa học, chưa có cơ chế huy động sự tham gia tích cực, thiết thực và hiệu quả của doanh nghiệp vào đào tạo; chính sách khuyến khích phát triển nhân lực VHTTDL ở các vùng nông thôn, miền núi chưa đủ và tổ chức triển khai chưa hiệu quả, còn buông lỏng quản lý; sự chênh lệch chất lượng đào tạo ở đô thị và một số vùng đồng bằng với các cơ sở đào tạo cùng lĩnh vực ở vùng sâu, vùng xa chưa có biện pháp giải quyết.

     3. Nguyên nhân của những hạn chế

     Chậm cải cách hành chính, chậm đổi mới quản lý kinh tế, tài chính, sử dụng lao động, chính sách tiền lương… là nguyên nhân chủ yếu, cản trở nhiều đến việc giải quyết có hiệu quả những khó khăn, vướng mắc; khó huy động và phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội để tạo sự tăng trưởng nhanh và bền vững của phát triển nhân lực nói chung và nhân lực VHTTDL nói riêng.

     Phát triển nhân lực VHTTDL chưa được quan tâm đúng mức; chưa đánh giá được tầm quan trọng và vai trò của nhân lực VHTTDL trong xây dựng và phát triển nhân cách, chuẩn mực xã hội, phát triển trí lực và thể lực toàn dân; trong sự nghiệp nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.

     Đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường và thực hiện chính sách mở cửa đang làm thay đổi thang giá trị xã hội, phẩm chất của người lao động… điều đó ảnh hưởng trực tiếp đến định hướng phát triển nhân cách người học, người lao động trí óc và lao động chân tay trong khi giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp chưa có những biện pháp hiệu quả để tác động tích cực đến những thay đổi đó.

     4. Nhiệm vụ và giải pháp cấp bách về cơ chế chính sách trong đào tạo

     Một trong những nhiệm vụ và giải pháp cấp bách của ngành VHTTDL trong giai đoạn hiện nay là phải đổi mới, xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính sách, cơ chế chính về phát triển nhân lực VHTTDL và được thể chế hóa bằng văn bản pháp luật hoàn chỉnh và đồng bộ, cụ thể là:

     Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện khung chính sách, cơ chế tài chính để tăng cường huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực phát triển nhân lực

     Xây dựng tiêu chí được hỗ trợ ngân sách nhà nước đối với cơ sở đào tạo, người tham gia đào tạo và cơ sở sử dụng nhân lực VHTTDL; cải tiến cơ chế phân bổ và nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách nhà nước cho phát triển nhân lực thông qua việc tăng đầu tư phát triển nhân lực trong tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội cho ngành; tập trung ngân sách để thực hiện các mục tiêu nâng cao chất lượng giáo dục văn hóa truyền thống và thể chất ở hệ thống giáo dục phổ thông, hỗ trợ bồi dưỡng nhân tài, nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực đỉnh cao, thực hiện các nhiệm vụ, chương trình, dự án đào tạo nhân lực theo mục tiêu ưu tiên và thực hiện bình đẳng xã hội.

     Xây dựng cơ chế khuyến khích đủ mạnh để doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp có thu tăng cường đầu tư kinh phí cho đào tạo nhân lực tại chỗ của doanh nghiệp và đóng góp kinh phí cho đào tạo nhân lực; thực hiện mô hình trường trong doanh nghiệp và doanh nghiệp trong trường với cơ chế ưu đãi được khấu trừ chi phí đào tạo trước khi tính thuế lợi nhuận.

     Thực hiện những ưu đãi về thuế và phí đối với các cơ sở đào tạo VHTTDL và dịch vụ thị trường lao động liên quan: miễn, giảm thuế thu nhập trong thời gian hoạt động ban đầu; miễn, giảm thuế nhập khẩu đối với thiết bị, máy móc, dụng cụ thí nghiệm và học liệu phục vụ đào tạo, huấn luyện trong nước không sản xuất được; miễn, giảm thuế tiêu thụ trong nước và xuất khẩu đối với các sản phẩm là kết quả nghiên cứu, thử nghiệm; miễn, giảm thuế thu nhập đối với nhân lực tài năng nghiên cứu, đào tạo phát triển nhân lực.

     Đa dạng hóa các hình thức tín dụng, tín dụng đào tạo cho sinh viên, học sinh học VHTTDL; cho các cơ sở đào tạo nhân lực VHTTDL để xây dựng, cải tạo và nâng cấp hiện đại hóa cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ giảng dạy và cung cấp dịch vụ.

     Thực hiện chính sách học phí đáp ứng yêu cầu tổ chức đào tạo nhân lực VHTTDL đảm bảo chất lượng và phù hợp với khả năng người học; thực hiện chính sách miễn, giảm học phí và cấp học bổng cho người học theo tiêu chí, tiêu chuẩn và mục tiêu nhất định; đưa người có thành tích xuất sắc trong học tập, tu dưỡng, người học các ngành nghề liên quan đến bảo tồn và phát huy truyền thống văn hóa dân tộc, di sản văn hóa về làm việc trong VHTTDL ở vùng sâu, vùng xa.

     Tăng cường huy động các nguồn lực của các tổ chức xã hội và cộng đồng cho phát triển nhân lực; khuyến khích công dân, các tổ chức kinh tế, xã hội, nghề nghiệp cộng đồng dân cư huy động và đóng góp nguồn lực cho phát triển đào tạo nghề nghiệp VHTTDL.

     Thu hút và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn ODA, FDI, viện trợ của các tổ chức, cá nhân nước ngoài để phát triển nhân lực VHTTDL.

     Tăng cường chính sách phát triển nhân lực VHTTDL vùng sâu, vùng xa

     Tập trung đầu tư củng cố, hoàn thiện mạng lưới trường phổ thông dân tộc nội trú. Phối hợp xây dựng và thực hiện chính sách hỗ trợ phát triển các trường, lớp bán trú dân nuôi ở những vùng khó khăn, vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa, hải đảo và vùng đồng bào dân tộc ít người để tạo và phát hiện nguồn ban đầu cho phát triển nhân lực VHTTDL.

     Xây dựng và thực hiện các đề án hướng nghiệp, dạy nghề VHTTDL cho đồng bào các dân tộc thiểu số vùng sâu, vùng xa, hải đảo; điều chỉnh, bổ sung các quy định, tiêu chuẩn, chế độ, chính sách cử tuyển đào tạo, dự bị đại học đối với học sinh người dân tộc các vùng kinh tế – xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn, ưu tiên đặc biệt các dân tộc ít người chưa có nhiều người được đào tạo đại học, cao đẳng về VHTTDL.

     Điều chỉnh chế độ học bổng với học sinh, sinh viên cử tuyển, học dự bị đại học và học trong trường dân tộc nội trú; chăm lo chế độ, chính sách đãi ngộ đối với các cán bộ, giảng viên, giáo viên làm việc trong các trường dân tộc nội trú, cơ sở đào tạo về VHTTDL ở vùng sâu, vùng xa, hải đảo.

     Đổi mới và hoàn thiện chính sách sử dụng nhân lực

     Đổi mới triệt để và toàn diện chính sách tiền lương phù hợp với tính chất và yêu cầu của thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; tiền lương của nhân lực VHTTDL phải phản ánh giá trị sức lao động mang tính đặc thù sáng tạo, năng khiếu, thể hiện chất lượng lao động và gắn liền với kết quả, hiệu quả công việc thực hiện.

     Đổi mới chính sách tiền lương và hệ thống thang, bảng lương đối với cán bộ, công chức làm việc ở các vị trí đặc thù; cải tiến đồng bộ chính sách tiền lương và đãi ngộ đối với giáo viên, giảng viên, huấn luyện viên và cán bộ quản lý đào tạo VHTTDL; ban hành một số chế độ đặc thù đối với đội ngũ nhà giáo của ngành làm việc ở vùng sâu, vùng xa, hải đảo (nhà ở, luân chuyển công tác, phụ cấp đặc biệt…).

     Xây dựng và thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng, đãi ngộ và tôn vinh nhân tài: cấp học bổng và miễn, giảm học phí cho sinh viên, học sinh có năng khiếu, thành tích xuất sắc trong học tập, nghiên cứu khoa học và tu dưỡng; khuyến khích các tổ chức, cá nhân thành lập quỹ đào tạo và bồi dưỡng nhân tài; có chính sách ưu tiên tuyển dụng, sử dụng, phát huy và đãi ngộ nhân tài; có chính sách chiêu hiền đãi sĩ thống nhất toàn quốc, tôn vinh nhân tài và có cơ chế phụ cấp, khen thưởng xứng đáng với kết quả làm việc và đóng góp.

     Có chính sách đào tạo, bồi dưỡng chuẩn hóa đội ngũ nghiên cứu viên, giáo viên, giảng viên, huấn luyện viên, đào tạo viên: đào tạo, bồi dưỡng kiến thức chuyên môn, ngoại ngữ, tin học và phương pháp nghiên cứu, giảng dạy tương ứng với lĩnh vực nghiên cứu, đào tạo, huấn luyện cho nghiên cứu viên, giảng viên, giáo viên, huấn luyện viên và đào tạo viên ở trong và ngoài nước.

     Xây dựng và hoàn chỉnh tiêu chuẩn giáo viên, giảng viên các cấp đào tạo. Có chế tài đối với các cơ sở đào tạo không đảm bảo đủ đội ngũ giảng viên theo quy định; tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật và đổi mới phương pháp, nội dung, chương trình đào tạo giáo viên, giảng viên theo các chuẩn mới.

     Đổi mới quản lý đào tạo, cơ chế đánh giá giảng viên, giáo viên, huấn luyện viên, đào tạo viên; các cơ sở đào tạo công lập và ngoài công lập có quyền chủ động trong việc ra những quyết định về tổ chức, biên chế, tuyển dụng và thực hiện các chế độ lương, thưởng… đối với đội ngũ giáo viên, giảng viên theo hình thức chế độ hợp đồng lao động như trong quy định của Bộ Luật Lao động.

     Chủ động mở rộng hợp tác quốc tế để thu hút nguồn lực tài chính và kinh nghiệm, công nghệ; thu hút giảng viên là người nước ngoài và người Việt Nam ở ngoài nước tham gia đào tạo đội ngũ giảng viên, giáo viên, huấn luyện viên, đào tạo viên; ưu tiên tối đa và tạo cơ hội du học bằng nguồn kinh phí từ ngân sách nhà nước cho giảng viên và nghiên cứu sinh giỏi, có hoài bão đóng góp vào sự nghiệp giáo dục, đào tạo nhân lực VHTTDL Xây dựng chính sách đặc thù đối với giáo viên, giảng viên, huấn luyện viên, đào tạo viên về chế độ giảng dạy và nghiên cứu khoa học, về trả lương với thang bảng lương riêng đối với nghề giáo, về hệ thống thưởng thâm niên, thưởng chuyên môn giỏi, nghiên cứu khoa học, chế độ bảo hiểm xã hội, phụ cấp trách nhiệm, phụ cấp làm việc ở vùng sâu, vùng xa…

     Xây dựng chính sách khuyến khích nhân tài (nghệ nhân nhân dân, nghệ nhân ưu tú, nghệ sĩ nhân dân, nghệ sĩ ưu tú, chuyên gia) có tài năng và kinh nghiệm thực tiễn tham gia giảng dạy, đào tạo, huấn luyện nhân lực.

     Có chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác khoa học, chuyên gia đầu ngành để không bị hẫng hụt khi chuyển giao thế hệ; huy động trí tuệ, kinh nghiệm của đội ngũ các nhà khoa học, chuyên gia, các nhà văn hóa học, thể dục thể thao và du lịch học tài năng đã nghỉ hưu hoặc đang làm công tác ở trong, ngoài ngành tiếp tục sự nghiệp nghiên cứu, sáng tạo, tham gia đào tạo, hướng dẫn cán bộ trẻ; từng bước gắn thu nhập của cán bộ nghiên cứu với kết quả thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học; khuyến khích cán bộ trẻ nghiên cứu khoa học.

     Xây dựng và công bố để ứng dụng bắt buộc hệ thống tiêu chuẩn tuyển chọn tài năng ở những lĩnh vực trọng điểm; xây dựng dữ liệu về nhân lực và phát triển nhân lực VHTTDL.

     Xây dựng cơ chế, chính sách trong đào tạo, phát triển nhân lực nói chung, nhân lực ngành VHTTDL nói riêng là vấn đề hết sức quan trọng và cần thiết trong bối cảnh hiện nay. Để tiếp tục đạt được thành tựu, xóa bỏ hạn chế, hoàn tất những nhiệm vụ đề ra, đất nước, cũng như ngành VHTTDL cần tập trung thực hiện các giải pháp cấp bách đã nêu nhằm đổi mới, xây dựng, hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách về phát triển nhân lực, tạo tiền đề để phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.

 

Tác giả: Lê Thị Thu Hiền

Nguồn: Tạp chí VHNT số 419, tháng 5-2019

Đánh giá post

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *