Giải Nobel, 120 năm nhìn lại


Giải Nobel là một trong những sự kiện văn
hóa, xã hội toàn cầu trọng đại, bên cạnh Giải vô
địch bóng đá thế giới, Thế vận hội Olympic, Lễ
Noel, Giải thưởng điện ảnh Oscar của Mỹ và Liên
hoan phim Cannes ở Pháp. Lịch sử nhân loại thực
chất là tiến trình bất tận, trong đó, mỗi cá nhân
và tập thể chung sức chung lòng phấn đấu cho
đời sống của con người ngày một hoàn thiện và
xã hội ngày thêm hoàn mỹ. Những cố gắng này,
thể hiện qua các thành tựu văn học, kinh tế,
khoa học và hòa bình, cần được ghi nhận và
tuyên dương kịp thời. Sự thật này không cần bàn
cãi. Chính vì thế, mùa giải Nobel hằng năm bao
giờ cũng được toàn thế giới đón nhận một cách
trang trọng và nồng nhiệt nhất (1).

Cội nguồn thực sự của các giải Nobel

Alfred Nobel (1833-1896) là nhà trí thức đúng nghĩa, ông kết tinh những gì là cao quý nhất của gia đình, dòng họ và tổ tiên xa xưa vốn là dân “cày sâu cuốc bẫm”. Bài học kiên định của cha đã giúp ông vượt qua mọi bất hạnh, gian nan, hoàn thành sự mệnh cao cả: cống hiến nhiều nhất cho xã hội.

Giải Nobel Hóa học năm 2020 được trao tới hai nhà khoa học nữ E.Charpentier

(bên trái) và J.A.Doudna, nguồn ảnh: nobelprize.org

Tiêu chí đầu tiên của sứ mệnh làm người là phải lao động cật lực. Là một chú bé ốm yếu, ông nỗ lực học giỏi, thành thạo 5 thứ tiếng, nghiên cứu quên mình. Ông là chủ sở hữu của 355 bằng phát minh sáng chế, 93 công ty và xí nghiệp ở trên 20 quốc gia. Thành tựu lớn nhất của ông là tìm ra thuốc nổ an toàn khi vận chuyển. Mua đất ở một làng hẻo lánh cùa nước Pháp để làm nhà thí nghiệm, ông kiên nhẫn hàng tháng trời, quyết chế tạo được loại thuốc nổ ấy. Viễn cảnh phát minh của mình sẽ giảm thiểu hoạt động cơ bắp, tăng nhanh tiến độ và hiệu quả của việc phá núi, xẻ hầm… đã thôi thúc ông lao động không biết mệt mỏi. Ông đi khắp thế giới, đưa phát minh nhanh nhất vào đời sống của các cộng đồng. Phát minh này giúp rất nhiều cho công nghiệp, nhất là làm đường, xuyên núi, xuyên biển, xây hải cảng, khai thác mỏ…

Ông để lại một tài sản kếch sù, khoảng 32 triệu couronne Thụy Điển (2). Ông không có vợ con. Sau khi dành ra khoảng 1 triệu couronne tặng các cháu, bạn bè và nhân viên cũ, ông di chúc lập thành Quỹ Nobel (ra đời năm 1900) an toàn, tức là sinh lợi, mỗi năm chia đều lãi thành 5 phần bằng nhau, trao tặng cho những người có cống hiến lớn nhất cho nhân loại trong các lĩnh vực vật lý, hóa học, y tế, văn học và hòa bình, không phân biệt quốc gia, chủng tộc, nam nữ…. Đến năm 1969, Ngân hàng Thụy Điển đề xuất thêm giải Nobel Kinh tế. Một năm sau khi ông qua đời, năm 1897, việc công bố di chúc của Nobel đã làm dậy sóng dư luận Thụy Điển. Tài sản khổng lồ đó sao không dành cho gia đình? Sự thật, Nobel nhận thấy những người ruột thịt của ông sản xuất và kinh doanh chưa đúng cách, chưa giỏi. Trao tiền cho họ có thể là lợi bất cập hại. Cho các cháu ư? Đáp lại là quan niệm sống: ai sinh ra trên đời cũng phải tự lực cánh sinh! Tiêu chí làm người thứ hai này lý giải một cách thuyết phục về thành công và tấm lòng của Nobel. Ở tuổi vị thành niên, Nobel từng viết bằng tiếng Anh rất nhiều thơ và hai tiểu thuyết nhưng ông bỏ dở vì tự thấy chưa có chất lượng. Tiêu chí sứ mệnh làm người thứ ba là đây: chỉ nên sáng tạo theo đúng sở trường, nghĩa là phải tự biết mình.

Các sáng chế của ông, do tính thiết thực, được nhiều nước muốn “độc quyền” sử dụng. Khi ông bán một phần cho Italia, Chính phủ Pháp nổi giận. (Bấy giờ, Italia với liên minh của mình đang chống Pháp). Báo chí trong nước thậm chí viết nhiều lời không hay về ông. Tuy vậy, ông vẫn không náo núng. Tiếp tục sản xuất cho những nơi cần…Vì thế, ông là một trong những người giàu nhất thế giới. Đó là vì ông kiên định lập trường sống chủ động, tích cực. Tiêu chí thứ tư này của sứ mệnh làm người được chứng minh bằng việc lựa chọn Nobel văn chương hơn một thế kỷ qua. Sống chủ động và tích cực hiển nhiên là lối sống đúng đắn nhất, phù hợp với bản chất loài người. Lối sống này là khó nhất trong hầu như mọi mô hình xã hội. Nền tảng của nó là đạo lý của nhân dân lao động: thuần khiết, bao dung, nhân ái, lợi ích và ý chí của số đông là quyết định. Chính lối sống đấy đòi hỏi ông “sáng chế” các giải Nobel, được hiểu như những lời nhắc nhở chí nghĩa chí tình của con người dành cho đồng loại.

 Nobel ly kỳ muôn vẻ hơn một thế kỷ

Trù liệu của A. Nobel cho bộ giải thưởng mang tên mình chứng tỏ cái tâm và cái tầm của ông mà nhiều người chủ trương các giải tương tự khác chưa vươn tới được. Giải Nobel nhất định phải nhân bản, công minh, minh bạch và giá trị vật chất đặc biệt được chú trọng. Mỗi giải được một tổ chức chuyên môn uy tín cao xét tặng: Viện hàn lâm khoa học Hoàng gia Thụy Điển trao giải Vật lý và Hóa học; Viện Karolinska ở Stockholm trao giải Y học; Viện hàn lâm Thụy Điển trao giải Văn học; Ủy ban hòa bình của Nghị viện Na Uy trao gỉải Hòa bình.

Năm năm sau khi Nobel qua đời, những người được giao sứ mệnh mới hoàn chỉnh các thể thức bảo đảm các tiêu chí giải vừa nêu. Cho đến nay, giải Nobel vẫn giữ được ý nghĩa xây dựng cao cả, không phụ lòng người sáng lập. Các giải Nobel được trao từ 1901. Không ít chuyện động trời đã xảy ra, cho thấy sức hấp dẫn kỳ lạ của chúng. Chúng không bị những sóng gió của thời cuộc quật ngã. Ngược lại, chúng vẫn tiến lên đầy kiêu hãnh, như một chiến thắng của loài người. Năm 1903, Viện hàn lâm khoa học Pháp đề cử Pierre Curie và Henri Becquerel cho Nobel Vật lý. Được tin, Pierre Curie liền viêt thư cho Viện ấy, trình bày rõ: vợ ông, bà Marie Curie, có công đầu cho công trình chung (tính phóng xạ của nguyên tử). Nếu không có bà khởi xướng và kiên trì theo đuổi, ba người không thể đi tới kết quả cuối cùng. Viện đó bổ sung Marie Curie vào danh sách và thế là Marie Curie được Nobel đầu tiên năm 1903. Tháng 10-1911, bà được thông báo trúng giải Nobel Hóa học (phát kiến nguyên tố phóng xạ). Nhiều báo lá cải tung nhiều “thư tình” giữa bà và Paul Longuevin, đã vợ con, học trò của hai người. Những thư này, không khó để nhận ra chỉ là sự giả mạo. Tuy nhiên, Viện hàn lâm khoa học Hoàng gia Thụy Điển, cơ quan xét giải, đã dao động, “khuyên” bà từ chối. Thực tế, đó chẳng khác một mệnh lệnh buộc khước từ công trạng và vinh quang nhưng bà đã không chấp nhận và khẳng định sự trong sáng của lòng mình, lên án trò vu khống độc ác, đê tiện. M. Curie là người phụ nữ đầu tiên được tặng Nobel khoa học, người phụ nữ duy nhất “ẵm” hai Nobel danh giá.

Năm 1918, nhà khoa học Đức Fritz Haber được trao Nobel Hóa học về việc nghiên cứu, chế tạo được phân hóa học; thành tựu này không khác gì một cuộc cách mạng nông nghiệp bởi nhờ đó, sản lượng và chất lượng nông sản tăng vọt. Hơn 1,5 tỷ người lúc ấy trên toàn thế giới thoát cảnh thiếu ăn… Thế nhưng, nhiều người phản đối. Ấy là do Haber cũng là người khởi xướng vũ khí hóa học, đặc biệt là hơi độc mà quân Đức sử dụng trong Thế chiến I. Tuy nhiên, giải Nobel của ông vẫn không bị rút lại. Dù vậy, là người Do Thái, ông vẫn bị Hitler bức hại. Sau cái chết của ông, Hitler đã tiếp tục cấm công dân Đức nhận bất kỳ giải Nobel nào.

 Những năm 1920 và 1930, nhà báo kiêm nhà văn Đức Carl von Ossietzky có tiếng tăm lừng lẫy bên trong và bên ngoài Đức, như một chiến sĩ hòa bình nồng nhiệt và kiên định. Với ông, yêu Tổ quốc là làm sao cho Tổ quốc thuần khiết, yên bình. Do vậy, ông đã công khai lên báo các hoạt động bí mật tái vũ trang của nước ông, chuẩn bị cho một cuộc trả thủ (Đức thất trận trong Đại chiến I). Vì thế, năm 1931, ông và một viên kỹ sư bị truy tố về tội đại phản quốc. Viên kỹ sư bỏ trốn ra nước ngoài. Ông một mực ở lại. Bất chấp nhiều lời khuyên lưu vong như viên kỹ sư. Ông bị tù, rồi bị ném vào trại tập trung của phát xít Đức. Ý chí chiến đấu của ông thổi bùng lên một phong trào quần chúng quốc tế rộng lớn, vừa yêu cầu phát xít nương nhẹ sức khỏe của ông, vừa đề nghị Ủy ban Nobel của quốc hội Na Uy trao cho ông Nobel Hòa bình. Đây là sự kiện chưa từng có trong lịch sử giải Nobel. Do chính phủ Hitler gây sức ép nặng nề lên cơ quan xét giải nên năm 1935, người ta phải lờ ông đi. Các bạn chiến đấu của ông không nản lòng. Cuộc đấu tranh sôi sục hơn nhiều, kết quả là Carl von Ossietzky được tặng Nobel Hòa bình năm 1936. Hitler cho giam lỏng ông ở một bệnh viện. Và đương nhiên, không cho ông nhận giải. Ông qua đời vì kiệt sức. Hiện nay, tên ông được đặt cho một trường đại học, nhiều đường phố và đại lộ ở Đức. Huân chương Carl von Ossietzky vẫn được Liên hiệp Nhân quyền thế giới trao tặng hàng năm như một phần thưởng vì con người. Sau Ossietzky, có ba nhà khoa học Đức bị Hitler cấm nhận Nobel. Họ là Richard Kuhn, Nobel Hóa học năm 1938; Adold Butenandt, Nobel Hóa học năm 1939 và Gerhard Domagk, Nobel Y học năm 1939.

Năm 1958, Nobel Văn học được tặng cho Boris Pasternak, nhà văn Liên Xô. Nhưng lo sợ những rắc rối mà gia đình có thể gặp phải từ phía chính quyền, ông từ chối giải. Dù vậy, năm 1989, con trai ông vẫn được nhận giải đó thay cha đã qua đời. Người đã chết duy nhất được trao Nobel là nhà thơ Thụy Điển Erk Axel Karlfeldt. Năm 1918, ông không nhận Nobel Văn học, vì đang là thư ký vĩnh viễn của Viện hàn lâm Thụy Điển, cơ quan trao giải Văn học. Thế nhưng, năm 1931, Viện vẫn truy tặng ông giải ấy, bởi thấy thơ ông quá được hâm mộ ở trong và ngoài đất nước.

Năm 1964, giải Nobel Văn học đã gây một sự chú ý lớn trên thế giới. Đầu tháng 10, được tin mình có trong danh sách chọn trao giải, nhà văn kiêm nhà triết học Pháp Jean – Paul Sartre viết thư từ chối, gửi cho Viện hàn lâm Thụy Điển. Thư đến muộn, giải vẫn được trao. Ông nhất quyết chối từ. Lý do được ông đưa ra đến nay vẫn khiến không chỉ những cây bút sừng sỏ nhất sửng sốt. Ấy là nhà văn nói riêng, nhà sáng tạo nói chung cần được hoàn toàn tự do, hoàn toàn là mình. Bản thân Sartre từng không chấp nhận những phần thưởng đáng nể mà chính phủ Pháp trao tặng.

Năm 1973, thế giới lại xao xuyến với giải Nobel Hòa bình. Giải này được tặng cho hai nhân vật góp phần đắc lực vào việc ký kết Hiệp định Paris liên quan đến chiến tranh Việt Nam. Hai người đó là Lê Đức Thọ, Việt Nam và Henry Kissinger, ngoại trưởng Mỹ. Ông Lê Đức Thọ xin không nhận giải, vì hành động của mình chưa đạt hiệu quả trọn vẹn: Miền Nam Việt Nam chưa có hòa bình thực sự.

Từ 2017, bà Aung San Suu Kyi, nhân vật chính trị của Myanmar cũng là một cái tên được nhắc đến rất nhiều trên các diễn đàn truyền thông thế giới liên quan đến giải thưởng Nobel Hòa bình. Đảng Liên minh quốc gia vì dân chủ mà bà là Chủ tịch lớn mạnh từng bước một vì được nhân dân ủng hộ. Năm 1990, đảng giành thắng lợi áp đảo trong bầu cử quốc hội. Dù vậy, bà không được làm thủ tướng, mà bị quản thúc tại gia. Nhưng tình hình biến chuyển dần, theo chiều tích cực, từ cuộc đấu tranh mà bà là linh hồn và biểu tượng. Chính quyền độc tài quân sự tìm mọi cách để bà rời đất nước. Kể cả “cấm vận” chồng con bà. Nhưng bà cương quyết trụ lại với nhân dân. Năm 2015, chiến thắng quyết định đã đến. Bà trở thành cố vấn chính phủ mới, chức vụ đặc biệt, tương đương nguyên thủ quốc gia. Không lâu sau, bà bị dư luận thế giới chỉ trích nặng nề, cho rằng bà im lặng trước cuộc “diệt chủng” đối với tộc người thiểu số Rohingya theo Hồi giáo. Tộc người này từng bị quân đội gần như truy sát, phải rời bỏ xứ sở…Vậy là nổi lên phong trào quốc tế đòi tước giải Nobel Hòa bình mà bà được tặng năm 1991. Bản kiến nghị với 400.00 chữ ký đã được gửi tới Ủy ban Nobel của Quốc hội Na Uy… Nhưng giải thưởng của bà vẫn không bị thay đổi. Việc chấm dứt vấn nạn nói trên không thể một sớm một chiều hay do một cá nhân chính trị hoàn toàn giải quyết được.

__________________

1. Đây là bài dịch và bình luận từ tổng hợp thông tin nhiều nguồn trên thế giới, của dịch giả Nguyễn Văn Quảng, bút danh Triệu Thanh Đàm, một cộng tác viên lâu năm của Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật.

2. Couronne là tiền đồng của Thụy Điển, 1 Couronne hiện tại tương đương 0,098EUR.

Tác giả: Triệu Thanh Đàm

Nguồn: Tạp chí VHNT số 449, tháng 1-2021

Đánh giá post

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *