Lý huế, nhìn từ tư liệu của các nhà nghiên cứu

Lý Huế là một trong những đại diện tiêu biểu của dòng âm nhạc dân gian xứ Huế. Tuy nhiên, nhiều năm trở lại đây, tác động của môi trường, con người, xã hội… đã làm cho lý Huế vắng bóng dần trong đời sống sinh hoạt của người dân. Để hiểu hơn về loại hình âm nhạc dân gian độc đáo này, chúng tôi xin điểm lại một số công trình nghiên cứu của các nhà khoa học đi trước.

1. Dạng công trình có tính lý luận

Lý – những khúc tâm tình của người Việt Nam (1) của nhà nghiên cứu Lê Văn Hảo, mặc dù không dài, nhưng đã khái quát được bức tranh về điệu Lý con sáo thuộc nhiều vùng miền. Tác giả chia thành: Lý con sáo Trung du, Lý con sáo Bắc, Lý con sao Thanh, Lý con sáo Huế, Lý con sáo Quảng, Lý con sáo Nam. Thông qua bài viết, tác giả đã cho thấy một cái nhìn mang tính khái quát về diện mạo của các bài Lý con sáo, chứng minh nguồn gốc của chúng đều xuất phát từ Lý con sáo Huế.

Huế giữa chúng ta của Lê Văn Hảo ra đời trong thời điểm UNESCO đang có chương trình trùng tu lại các di tích triều Nguyễn ở Huế (2). Cuốn sách gồm 10 chương, trong đó tác giả đề cập đến âm nhạc ở chương 6, khái quát về lời ca trong các thể loại âm nhạc dân dân gian xứ Huế như hò, vè, lý, ca Huế. Lý Huế chỉ được trình bày trong 3 trang, tác giả cho rằng: “Lý là những điệu dân ca quen thuộc, những khúc tâm tình dân gian rất phổ biến ở vùng Huế. Nếu hò là dân ca lao động thì lý là những khúc hát dùng trong vui chơi gặp gỡ giữa trai gái, giãi bày tâm sự hay diễn tả nỗi niềm. Khác với hò còn mang nhiều tính chất tự do, phóng khoáng, lý là những giai điệu hoàn chỉnh, cố định, mỗi giai điệu mang một tính tích cực riêng biệt, khi tình tứ tha thiết, khi thì buồn thảm não nùng, khi thì phấn khởi vui tươi, có thể nói lên nhiều khía cạnh tâm tư con người” (3).

Sau những nhận xét có tính khái quát và đưa ra sự so sánh giữa hò, lý, ông tiếp tục nhận định rằng, nhiều vùng trên cả nước có làn điệu Lý con sáo, nhưng đều bắt nguồn từ Huế. Sau nhận định này, tác giả giới thiệu một số điệu lý: Lý Giang Nam, Lý hoài xuân, Lý tình tang, Lý nội, Lý thày tu.

Trở lại bài dân ca Lý hoài xuân (4) của tác giả Minh Phương, sau khi xem xét trên bình diện âm nhạc, lời ca, huyền thoại và tham khảo các nghệ nhân, kết luận: “Lý hoài xuânLý con sáo là hai làn điệu cách xa nhau chứ không phải một… Lý con sáo quan hệ gần gũi với dân ca cả ba miền, ở đây cho phép chúng ta đặt giả thuyết Lý con sáo có thể phát sinh từ Bắc vào”. Theo chúng tôi, vấn đề này cũng có những hạt nhân hợp lý, tuy nhiên cần có thêm tư liệu để kiểm chứng tính xác thực của nó.

Nói về nguồn gốc xuất xứ của lý trong dân ca Việt Nam, tác giả Dương Bích Hà viện dẫn cách giải thích của một số nhà nghiên cứu: Tú Ngọc, Đào Trọng Từ, Lư Nhất Vũ, Lê Văn Hảo, Nguyễn Đăng Hòe, Phạm Duy…, và cách cắt nghĩa trong Từ điển Hán Việt cũng như trích dẫn lại trong sách Đại Việt sử ký toàn thư. Thông qua tư liệu của các nhà nghiên cứu trước đó, đặc biệt khi Phạm Duy giải thích lý là làng, tác giả cho rằng: “Việc giả thích chữ lý theo cách trên hoàn toàn xa rời với tính chất ca hát…”.Với đặc tính là truyền miệng (nhạc hát), nên các thể loại âm nhạc dân gian đều gắn bó mật thiết với nguồn gốc, truyền thống âm nhạc lâu đời của dân tộc. Vì vậy, khi lý giải về nguồn gốc của lý, không thể tách khỏi nguồn gốc văn hóa Đại Việt. Từ quan điểm này Dương Bích Hà mạnh dạn xác định, quê hương của lý có thể là xứ Huế, là vùng đất Thuận Hóa. Lý có thể tách rời khỏi môi trường diễn xướng của lối hát giao duyên truyền thống, giả định là có thể đã tách rời hát ghẹo, hát trống quân, hát ví… hay từ các thể loại dân ca phong phú của dân tộc Mường… theo bước chân của các cư dân miền Bắc vào châu Ô, Lý. Từ những dẫn lược chi tiết đó, Dương Bích Hà khẳng định: “lý ra đời từ xứ Huế” (5). Bắt đầu từ luận điểm này, Huế được coi là trung tâm ra đời của các điệu lý. Từ Huế, lý lan tỏa, ảnh hưởng ra phía Bắc trở về với cội nguồn xa xưa như trong quan họ, hát ghẹo, trống quân, dân ca Thanh Hóa, mà những bài Chuồn chuồn mắc phải nhện vương, Quạt Tàu 36 nan xương, Lý tam thất, Lý thiên thai… đều mang cốt cách của các điệu lý Huế. Đặc biệt, một số bài còn giữ được đầy đủ vóc dáng, hình hài của điệu Lý nam xang Huế. Sự lan tỏa, ảnh hưởng của lý Huế với các tỉnh phía Nam cũng được tác giả minh chứng qua Lý ba con ngựa, Lý thương nhau (xứ Quảng), Lý năm canh (Nam Trung Bộ), Lý ngựa ô, Lý con sáo, Lý lu là (Nam Bộ)…

Tác giả Dương Bích Hà còn thể hiện quan điểm của mình qua Kết cấu thể thức âm nhạc trong Lý Huế (6). Thông qua việc khảo sát các điệu lý Huế, tác giả cho thấy quan hệ giữa âm nhạc với lời ca qua sự hoàn chỉnh về cấu trúc thể thức: “Thông thường, một câu ca dao, gồm một cặp thơ 6 – 8 đã tạo thành một kết cấu hoàn chỉnh của một điệu lý. Nhưng cũng có lúc, chỉ một câu 6 đã là kết cấu hoàn chỉnh nhờ tiếng đệm, tiếng láy…, được dân gian sử dụng để mở rộng khúc thức. Có những trường hợp bài thơ gồm nhiều cặp thơ 6 – 8, mà kết cấu âm nhạc của điệu lý đã hoàn chỉnh ngay trong cặp thơ đầu tiên với một thể thức nhất định, thì các cặp thơ sau được nhắc lại dưới dạng biến tấu, hoặc đơn giản hơn là nhắc lại như kiểu lời 1, lời 2… hoặc như cách gọi của nghệ nhân là câu 1, câu 2…”. Sau những nhận định có tính khái quát như trên, tác giả dẫn chứng trong từng trường hợp cụ thể: điệu lý hình thành trọn vẹn trên một cặp thơ 6 – 8, như Lý hoài nam; hình thành ngay trong câu sau của thể thơ sáu tám như Lý Giang Nam; hình thành hoàn chỉnh bằng cặp thơ sáu tám đầu, còn những cặp thơ sau là sự nhắc lại, hoặc sự nhắc lại có biến tấu như bài Lý năm canh; điệu lý hình thành bằng hai cặp thơ 6 – 8, điển hình như Lý tử vi.

Bên cạnh đó, tác giả Dương Bích Hà còn thể hiện nghiên cứu chuyên sâu hơn về thể loại này trong cuốn Lý Huế (7).

Phần mở đầu, là cách nhìn tổng quan với cách tiếp cận cơ bản về địa văn hóa để thấy được sự hình thành của dòng âm nhạc dân gian xứ Huế, trong đó có lý Huế.

Phần thứ nhất, tác giả mạnh dạn bác bỏ ngữ nghĩa của từ làng, láy… mà khẳng định nguồn gốc xướng ca của chữ lý, thống nhất lý là hát. Không dừng lại ở đó, trên cơ sở nhận xét của một số nhà nghiên cứu, kết hợp với giả định sự ra đời của lý, bước đầu tác giả đưa ra khái niệm: “Lý là thể loại ca hát trong dân gian miền Trung và miền Nam – vừa để chỉ thể loại (tâm tư, tình cảm), vừa mang ý nghĩa của thể thức (ngắn gọn, cân đối, chặt chẽ) dùng để diễn tả tâm tư, nỗi niềm… không mang tính đối đáp… không có môi trường diễn xướng. Thường có cấu trúc ngắn gọn nhưng hoàn chỉnh, chặt chẽ trong một hoặc hai câu thơ lục bát, giai điệu uyển chuyển, dễ nhớ dễ thuộc”.

Bên cạnh đó, tác giả tiếp tục khẳng định lý là một thể loại dân ca tiêu biểu trong âm nhạc dân gian xứ Huế, đưa ra danh mục 29 điệu lý Huế và các biến thể.

Phần thứ hai, tác giả chủ yếu khai thác lý Huế dưới phương diện âm nhạc học. Thông qua mối quan hệ giữa ngữ điệu, thanh điệu, tác giả đi sâu vào phân tích những thủ pháp, hình thức biểu hiện, tạo nên đặc trưng riêng của thể loại này. Những đặc trưng riêng đó được biểu hiện rõ nét qua giai điệu âm nhạc, thang âm – điệu thức, cấu trúc hình thức và nghệ thuật phổ thơ của lý Huế.

Phần thứ ba, tác giả chủ yếu nghiên cứu về nguồn gốc, quá trình phát triển của lý Huế. Sau khi nghiên cứu trong tổng thể văn hóa dân gian xứ Huế, tác giả cho rằng, giữa lý Huế và ca Huế có mối liên quan chặt chẽ với nhau. Bên cạnh những điểm chung với sự ảnh hưởng qua lại, thâm nhập lẫn nhau, giữa chúng cũng tồn tại nhiều khác biệt. Lý thuộc thể loại âm nhạc dân gian, còn ca Huế thuộc thể loại âm nhạc bác học, thính phòng cổ truyền.

Phần kết, tác giả khẳng định: “xuyên suốt trong tập sách này là quan điểm: xứ Huế, nơi phát sinh của thể loại lý chứ không phải là sự phát triển bình thường của một thể loại đã sẵn có trong truyền thống âm nhạc cội nguồn, như sự phát triển của nó về phương Nam”.

Yếu tố dân gian và bác học trong lý Huế (8) của nhạc sĩ Vĩnh Phúc cho rằng, trong dân ca Huế, một số thể loại như hát sắc bùa, hát chầu văn và các điệu hò… tương đối ổn định về phương thức, quy trình trình diễn, nhưng đối với lý Huế lại có rất nhiều dị bản. Tác giả đi khảo sát ở nhiều nơi nhưng không thấy bóng giáng của lý trong đời sống sinh hoạt của người dân, mà chỉ được nghe qua các nghệ nhân có quá trình tham gia đàn ca Huế bán chuyên nghiệp kể lại. Bởi vậy: “Việc tìm lại không gian đặc thù của lý Huế là nhiệm vụ bất khả thi. Thực sự lý đã tách khỏi làng quê, tách khỏi môi trường dân gian cổ xưa đi vào con đường sinh hoạt chuyên nghiệp, hòa nhập với thể tài âm nhạc bác học là ca Huế cổ điển thính phòng… Bởi trong quá trình phát triển, lý đã được trau chuốt bằng các thủ pháp nhà nghề của giới cầm ca xứ Huế”. Theo tác giả, “bản thân thể loại này đã bao hàm cả hai yếu tố: dân gian và bác học, tuy nhiên khó có thể phân chia rạch ròi vì nó hòa lẫn vào trong cấu trúc, đường nét giai điệu để trở thành một chỉnh thể”. Tuy nhiên, tác giả vẫn cố nhận diện sự khác biệt giữa hai yếu tố đó thông qua một số dấu vết còn lại như tên gọi, cách đặt tên của lý Huế.

2. Dạng công trình văn bản âm nhạc

Dân ca Việt Nam (9), là công trình do Tô Ngọc Thanh – Đặng Hoành Loan, Nguyễn Văn Dị tuyển chọn và sưu tầm. Trong số 256 bài được tuyển chọn, có 137 bài thuộc các dân tộc ít người, 118 bài của người Kinh. Riêng dân ca Bình Trị Thiên có 19 bài với các thể loại: hò, vè, hát ru, lý, trong đó có 6/9 bài là lý Huế.

Lý trong dân ca người Việt (10) là công trình nghiên cứu của Lư Nhất Vũ, Lê Giang, Lê Anh Trung, do Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam và Nxb Trẻ xuất bản năm 2006, với 730 trang chia thành 2 phần: Tiểu luậnCác làn điệu lý. Nhóm tác giả đề cập tới cuộc hành trình của Lý ngựa ô, Lý con sáo. Đây là 2 điệu lý có nhiều dị bản nhất,cho dù không đưa ra những chứng cứ có tính xác thực, nhưng nhóm tác giả khẳng định: “Lý ngựa ô vốn ra đời từ đất Thuận Hóa – Phú Xuân, tức Thừa Thiên – Huế ngày nay, rồi trải qua bao thế kỷ, cùng với đoàn người khẩn hoang lập nghiệp, lặn lội về phương Nam, điệu hát đi theo đến đâu lại hòa vào màu sắc, hơi thở cuộc sống ở đấy”. Nhóm tác giả còn dành riêng một chương đề cập đến thang âm, điệu thức của lý. Nhìn chung, lý có các dạng: thang 3, 4, 5 âm, kết hợp các dạng thức, chúng được xây dựng trên các điệu Bắc, Nam, Xuân, Oán. Phần Các điệu lý là phần chính của công trình, tập hợp các điệu lý từ Bắc vào Nam (do nhóm tác giả và nhiều nhà nghiên cứu ghi âm), trong đó có 556 bài lý, 35 bài dân ca có nguồn gốc từ lý, trong đó có tới 32 bài lý Huế.

3. Một số vấn đề cần chú ý

Thứ nhất, hầu hết các nhà nghiên cứu đều khẳng định lý không phải là những bài hát quê mùa hay lý làng, mà là một thể loại âm nhạc dân gian có vai trò quan trong đời sống của người Việt từ Bắc chí Nam.

Thứ hai, lý là một thể loại âm nhạc có cấu trúc ngắn gọn, dễ nhớ, dễ thuộc. Lời ca chủ yếu sử dụng các thể thơ trong dân gian, phản ánh đa dạng cuộc sống của người dân.

Thứ ba, lý không có không gian trình diễn riêng, người ta có thể hát ở mọi nơi, mọi lúc, miễn sao phù hợp với tâm tư, tình cảm của người hát với môi trường xung quanh.

Thứ tư, nhiều bài lý có tên giống nhau, nhưng nội dung và tính chất âm nhạc khác nhau. Mỗi nơi lý lại có những nét riêng, mang bản sắc văn hóa vùng miền một cách rõ nét.

Thứ năm, điều khác biệt đầu tiên ở lý Huế là tính chất âm nhạc thường có chiều sâu nội tâm hơn là sự vui vẻ bộc lộ ra bên ngoài. Tuyến giai điệu của lý Huế uyển chuyển hơn, tiết tấu phức tạp hơn lý Nam Bộ và một số nơi khác. Hơn nữa, lý Huế khó có sự phân biệt rạch ròi giữa yếu tố dân gian và yếu tố bác học.

Trong các công trình nghiên cứu về lý Huế, đa số các nhà nghiên cứu cho rằng xứ Huế là cái nôi của lý, đặc biệt là bài Lý ngựa ô, được hình thành từ Huế, lan tỏa về phương Nam rồi ngược lên phương Bắc. Việc xác định được nơi khởi nguồn của một bài lý cần có những tư liệu đáng tin cậy, phải được kiểm chứng. Tuy nhiên, qua sự khẳng định này, chúng tôi thấy con người đất cố đô xưa và nay luôn tự hào về lý Huế, thể hiện vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần của người dân.

_______________

1. Lê Văn Hảo, Lý – những khúc tâm tình của người Việt Nam, Tạp chí Âm nhạc, số1-2, 1980 – 1981.

2,3. Lê Văn Hảo, Huế giữa chúng ta, Nxb Thuận Hóa, 1984, Huế, tr.5, 217.

4. Minh Phương, Trở lại bài dân ca Lý hoài xuân, Tạp chí Sông Hương, số 8 – 1980, tr.97.

5. Dương Bích Hà, Giả định về nguồn gốc thể lý trong dân ca Việt Nam, Hợp tuyển Nghiên cứu lý luận phê bình âm nhạc Việt Nam TK XX, tập 2B, Viện Âm nhạc xb, Hà Nội, 2003, tr.785-793.

6. Dương Bích Hà, Kết cấu thể thức âm nhạc trong lý Huế, Hợp tuyển Nghiên cứu lý luận phê bình âm nhạc Việt Nam TK XX, tập 2B, Viện Âm nhạc xb, Hà Nội, 2003, tr.851-857.

7. Dương Bích Hà, Lý Huế, Nxb Âm nhạc, Hà Nội, 1997.

8. Vĩnh Phúc, Yếu tố dân gian và bác học trong lý Huế, Hợp tuyển Nghiên cứu lý luận phê bình âm nhạc Việt Nam TK XX, tập 2B, Viện Âm nhạc xb, Hà Nội, 2003, tr.926-928.

9. Tô Ngọc Thanh – Đặng Hoành Loan – Nguyễn Văn Dị, Dân ca Việt Nam, Nxb Âm nhạc, Hà Nội, 2001.

10. Lư Nhất Vũ – Lê Giang – Lê Anh Trung, Lý trong dân ca người Việt, Nxb Trẻ, 2006, TP.HCM, tr.32.

Nguồn : Tạp chí VHNT số 388, tháng 10-2016

Tác giả : NGUYỄN HOÀNG TỊNH UYÊN

Đánh giá post

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *