Ngay từ buổi hồng hoang của dân tộc ta, người phụ nữ đã giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong xã hội. Điều đó đã được thể hiện một cách hết sức đậm nét vào kho tàng thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, ca dao, tục ngữ Việt Nam. Người anh hùng làng Gióng có mẹ mà “không cần” có cha; Sọ Dừa cũng chỉ biết có mẹ… Sau đó, hình ảnh người cha xuất hiện nhưng vẫn không thể vượt qua được vai trò người mẹ. Bởi vậy, sau khi mẹ Âu Cơ và cha Lạc Long Quân chia tách đàn con làm hai, chỉ có người con cả theo mẹ mới được làm vua (1).
Tuy nhiên, tư tưởng trọng nam khinh nữ khiến vai trò của người phụ nữ bị đẩy lùi, thậm chí bị chà đạp. Dù vậy, tư tưởng đó cũng chỉ ảnh hưởng chủ yếu ở tầng lớp trên của xã hội, còn tầng lớp bình dân thì vẫn tự giác gìn giữ truyền thống trọng nữ như là một nét bản sắc văn hóa dân tộc. Bỏ qua những câu thuộc về khẩu khí kiểu Ba đồng một mớ đàn ông, Ba trăm một mụ đàn bà…, căn cứ vào những câu mang tính nghiêm túc cũng đủ thấy vai trò đặc biệt quan trọng của người phụ nữ Việt Nam.
Trong giới nghiên cứu văn hóa ở Việt Nam, Trần Ngọc Thêm là người đầu tiên đặt vấn đề cần phải nghiên cứu “văn hóa bảo tồn nòi giống”. Theo ông, “Trong số tất cả các loại giá trị văn hóa thì các giá trị liên quan đến văn hóa bảo tồn nòi giống là loại giá trị đặc biệt nhất”(2).
Thật vậy, người Việt Nam từ rất sớm đã có quan niệm hết sức nghiêm túc về vấn đề tái sản xuất con người mà cụ thể là duy trì nòi giống. Truyền thuyết Quả bầu mẹ của dân tộc Khơ mú kể rằng sau trận đại hồng thủy, mọi người trên thế gian đều chết hết, chỉ còn lại hai anh em nhà nọ. Họ bèn nghe lời chim thần lấy nhau để duy trì nòi giống. Hành động “loạn luân” này chẳng những không bị người đời sau lên án mà ngược lại còn được bày tỏ thái độ tri ân, đủ thấy trách nhiệm duy trì nòi giống được ông cha ta coi trọng đến mức nào.
Trong công việc duy trì nòi giống thì giống cái giữ vai trò chính còn giống đực chỉ giữ vai trò phụ. Bởi vậy mà các hình tượng thuộc tín ngưỡng phồn thực được tôn thờ phần lớn là các bộ phận sinh dục nữ. Ngay cả ông Địa, đã gọi là “ông” mà vẫn được mang hình tướng y hệt người phụ nữ có mang sắp sinh.
Trong ca dao, tục ngữ Việt Nam, vai trò sinh đẻ của người phụ nữ luôn được đề cao:
– Con chim se sẻ nó đẻ cột đình
Bà ngoại đẻ má, má đẻ mình em ơi
– Có chồng mà chẳng có con
Khác gì hoa nở trên non một mình
Bởi vậy mà ngày xưa đàn ông chọn vợ rất coi trọng tiềm năng sinh sản:
– Đàn ông không râu bất nghì
Đàn bà không vú lấy gì nuôi con
– Những người thắt đáy lưng ong
Đã khéo chiều chồng lại khéo nuôi con
Những người phụ nữ không có khả năng sinh con bị xem là có tội, chồng có thể đi lấy vợ khác, thậm chí người vợ đó phải chủ động đi cưới vợ khác cho chồng để nối dõi tông đường. Những người phụ nữ không con, do đó, càng thêm bất hạnh, bị rẻ rúng, khinh khi: “Cây độc không trái, gái độc không con”.
Nuôi dạy con cái
Trong gia đình Việt Nam, người phụ nữ chịu trách nhiệm chính trong việc nuôi dạy con cái, được xem là “nội tướng”, người nội trợ trong gia đình. Chính người mẹ đã mang nặng đẻ đau và nuôi dạy con khôn lớn:
– Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa
Miệng nhai cơm búng, lưỡi lừa cá xương
– Gió mùa thu mẹ ru con ngủ
Năm canh chầy thức đủ vừa năm
Chẳng những nuôi lớn phần xác, mẹ còn nuôi lớn con phần hồn bằng lời ru nồng nàn tình nghĩa và dạy dỗ con nên người:
– Phúc đức tại mẫu
– Mẹ ngoảnh đi, con dại; mẹ ngoảnh lại, con khôn
– Mẹ dạy thì con khéo, bố dạy thì con khôn
Khi con cất tiếng nói bi bô đầu đời, người mẹ cảm thấy vô cùng hạnh phúc:
Có vàng vàng chẳng hay phô
Có con, con nói trầm trồ mẹ nghe
Khi con lớn lên một chút, chính mẹ là người chỉ bảo, dìu dắt con đi trên mọi bước đường:
Ví dầu cầu ván đóng đinh
Cầu tre lắt lẻo gập ghềnh khó đi
Khó đi mẹ dắt con đi…
Chính vì vậy mà người mẹ, người bà chịu hoàn trách nhiệm về đứa con, đứa cháu của mình: “Con dại cái mang”, “Mẹ nào con nấy”, “Con hư tại mẹ, cháu hư tại bà”… Hầu như tạo hóa sinh ra người phụ nữ là để hy sinh cho chồng con:
Có con phải khổ vì con
Có chồng phải gánh giang sơn nhà chồng
So với cha thì công lao của người mẹ thường nặng hơn nhiều: “Cha sinh không bằng mẹ dưỡng”. Bởi vậy mà mồ côi cha vẫn không khổ bằng mồ côi mẹ:
Mồ côi cha ăn cơm với cá
Mồ côi mẹ liếm lá đầu chợ
Tình phụ tử sâu nặng đã đành, nhưng tình mẫu tử lại có thêm sự cảm thông sâu sắc:
Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều
Vẳng nghe chim vịt kêu chiều
Bâng khuâng nhớ mẹ chín chiều ruột đau
Má ơi đừng gả con xa
Chim kêu vượn hú biết nhà má đâu
Người mẹ đặc biệt lo cho tương lai hạnh phúc của con gái khi đến tuổi lấy chồng:
Mẹ mong gả thiếp về vườn
Ăn bông bí luộc, dưa hường nấu canh
Lời mẹ căn dặn con gái trước khi về nhà chồng thật tha thiết, cho thấy trách nhiệm nặng nề của người phụ nữ:
Con gái lớn ơi, mẹ bảo đây này
Học buôn học bán cho tày người ta
Con đừng học thói chua ngoa
Họ hàng ghét bỏ, người ta chê cười…
Con ơi, nhớ bấy nhiêu lời
Chính vì gắn bó nhiều với mẹ nên đứa con cũng dễ gắn bó và yêu thương bên ngoại. Nếu đứa con gắn bó bên nội chủ yếu là ở quan niệm về huyết thống thì lại gắn bó với bên ngoại chủ yếu là ở tình cảm. Nếu có gặp biến cố lớn trong gia đình thì đứa con thường trôi dạt về quê ngoại như “lá rụng về cội”: “Tấn về nội, thoái về ngoại”, “Cháu bà nội, tội bà ngoại”. Riêng giữa cháu và bà ngoại luôn có một mối tình đặc biệt
Gìn giữ hạnh phúc gia đình
Vai trò này chủ yếu thể hiện trong mối quan hệ với chồng mà trước hết là việc “chiều chồng”. Người phụ nữ Việt Nam có truyền thống yêu thương chồng tha thiết, vượt trội hẳn tình yêu thương của chồng:
– Gái thương chồng đương đông buổi chợ
Trai thương vợ nắng quái chiều hôm
– Chồng em áo rách em thương
Chồng người áo gấm xông hương mặc người
Trong gia đình, người phụ nữ luôn hết lòng chăm lo cho chồng như một người phục vụ nhiệt tình:
Quả cau nho nhỏ, cái vỏ vân vân
Nay anh học gần, mai anh học xa
Lấy chồng từ thuở mười ba
Việc cửa việc nhà anh bỏ cho tôi
Tuy là phái yếu nhưng họ lại luôn có ý thức che chở cho chồng:
– Trời mưa ướt lá trầu vàng
Ướt em em chịu, ướt chàng em thương
– Em nghe anh đau đầu chưa khá
Em băng đồng chỉ sá hái ngọn lá cho anh xông
Ước chi nên đạo vợ chồng
Đổ mồ hôi thì em quạt, ngọn gió lồng thì em che
Những hành động cao cả nói trên tóm lại là ở đức hi sinh cao cả của người phụ nữ Việt Nam, trước hết là đối với chồng:
Thương chồng nên phải lội sông
Vì chồng nên phải ăn ròng bẹ môn
So với nam giới thì người phụ nữ Việt Nam có truyền thống thủy chung hơn nhiều:
– Chưa chồng đi dọc đi ngang
Có chồng thì thẳng một đàng mà đi
– Có chồng thì phải theo chồng
Chồng đi hang rắn hang rồng cũng theo
Ngay cả khi chồng ruồng bỏ, họ vẫn nhẹ nhàng van lơn một cách khiêm nhường, từ tốn:
Chàng ơi phụ thiếp mà chi
Thiếp như cơm nguội đỡ khi đói lòng
Đặc biệt, khi chồng giận dữ, vai trò dàn xếp của người vợ vô cùng quan trọng:
Chồng giận thì vợ bớt lời
Cơm sôi nhỏ lửa mấy đời cơm khê
Làm kinh tế
Người phụ nữ Việt Nam là trung tâm kinh tế của gia đình. Họ vừa là thủ quỹ (“Trai có vợ như giỏ có hom”), vừa là người cân đối chi tiêu. Người vợ hiền thục, đảm đang là thứ tài sản vô cùng quý giá của chồng:
Làm trai lấy được vợ hiền
Như cầm đồng tiền mua được của ngon
Về hình thức thì gia đình Việt Nam có vẻ nam quyền, như thực chất lại rất bình đẳng, thậm chí tiếng nói của người vợ là quyết định:
– Lệnh ông không bằng cồng bà
– Ông tha mà bà chẳng tha
Làm nên cái lụt hăm ba tháng mười
Chính vì vậy mà lối sống “sợ vợ” trở nên hết sức phổ biến trong xã hội Việt Nam. Người vợ đóng vai trò không nhỏ trong mọi thành công của chồng: “Giàu nhờ bạn, sang nhờ vợ”. Tài sản trong gia đình có được cũng là nhờ “của chồng công vợ”. Vợ là người đồng chí của chồng:
Vợ chồng như đôi cu cu
Chồng thời đi trước, vợ gật gù theo sau
Mọi việc trong nhà, dù nặng hay nhẹ, đều có sự góp công của người phụ nữ thì mới thành công: “Thuận vợ thuận chồng tát biển Đông cũng cạn”. Hình ảnh “Chồng cày vợ cấy, con trâu đi bừa” trở nên vô cùng quen thuộc trong tâm thức người Việt Nam. Bởi vậy, cảnh người đàn ông làm lụng dãi dầu lẻ loi một mình bao giờ cũng lạ lẫm:
Chú kia mà vợ chú đâu
Chú đi bắt ốc hái rau một mình
Áp lực công việc trong gia đình luôn đè nặng lên đôi vai người phụ nữ:
Có chồng chẳng được đi đâu
Có con chẳng được đứng lâu một giờ.
Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam luôn gắn liền với việc thức khuya dậy sớm:
Nửa đêm ân ái cùng chồng
Nửa đêm về sáng gánh gồng ra đi
Khi chồng đi xa hay qua đời, người vợ phải vừa làm dâu, vừa làm mẹ, vừa làm cha để quán xuyến mọi công việc trong gia đình:
Con thơ tay ẵm tay bồng
Tay dắt mẹ chồng đầu bạc như bông
Đấu tranh chống ngoại xâm
Ngay từ buổi đầu chống ngoại xâm, người phụ nữ Việt Nam đã thể hiện vai trò đặc biệt, thậm chí đi đầu của mình. Họ không phải chỉ biết chăm lo cho gia đình mà khi cần cũng sẵn sàng xả thân vì nước vì nhà. Tấm gương Bà Trưng, Bà Triệu là điển hình cho truyền thống “Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh”:
Vú dài ba thước giắt lưng
Cưỡi voi gióng trống trong rừng chạy ra
Cũng toan gánh vác sơn hà
Cho Ngô biết mặt đàn bà Việt Nam
Đặc biệt, qua lời ru nồng nàn, người phụ nữ đã hun đúc cho con truyền thống yêu nước chống ngoại xâm:
Ru con, con ngủ cho lành
Để mẹ gánh nước rửa bành con voi
Muốn coi lên núi mà coi
Có bà Triệu tướng cưỡi voi đánh cồng
Để đối mặt với kẻ thù, người phụ nữ Việt Nam chân yếu tay mềm nhưng sẵn sàng luyện tập võ nghệ để trở thành anh hùng:
– Ai vô Bình Định mà coi
Con gái Bình Định đánh roi đi quyền
– Ai về Cao Lãnh mà coi
Con gái Cao Lãnh bỏ roi đi quyền
Khi kẻ thù giày xéo quê hương, người phụ nữ Việt Nam sẵn sàng xông ra trận tiền diệt lũ bán nước và cướp nước:
Gái Ba Tri mày tằm mắt phụng
Giặc tới nhà chẳng vụng huơ dao
Nhưng phổ biến nhất là vai trò tiếp tế hậu cần của người phụ nữ trong công cuộc chống ngoại xâm:
Con ơi con ngủ cho ngon
Để mẹ tiếp tế ba con đánh thù
Kết luận
Từ trong truyền thống, người phụ nữ Việt Nam luôn giữ vai trò lớn lao trong gia đình và xã hội. Hình ảnh người mẹ, người bà, người chị hiện lên trong tâm thức dân tộc như một biểu tượng của tinh thần chăm chỉ cần cù, chịu thương chịu khó và giàu đức hi sinh.
Nhưng vượt lên tất cả, người phụ nữ Việt Nam có vai trò gìn giữ các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Tạo hóa sinh ra họ như là đại diện cho bản sắc văn hóa linh hoạt của dân tộc: vừa dịu dàng, vừa cứng cỏi; vừa là người chủ trong gia đình, lại vừa là người phục vụ; dù được tôn trọng nhưng vẫn không ỷ lại. Chính vì vậy mà người phụ nữ trở thành biểu tượng của dân tộc Việt Nam. Điều đó giải thích vì sao phần lớn các hình thức tín ngưỡng bản địa ở Việt Nam đều gắn với yếu tố nữ và người phụ nữ trở thành đối tượng thông linh trong đời sống tâm linh của cư dân bản địa Việt Nam.
_______________
1. Trần Quốc Vượng, Truyền thống phụ nữ Việt Nam, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội, 2000, tr.10.
2. Trần Ngọc Thêm, Lý luận văn hóa học (tập bài giảng), Bộ môn Văn hóa học – Trường ĐH KHXH&NV TP.HCM, 2005, tr.66.
Nguồn : Tạp chí VHNT số 297, tháng 3-2009
Tác giả : Lê Công Lý
Bài viết cùng chủ đề:
Năng lực phản biện khoa học của giảng viên trong nhà trường quân đội
Thế giới quan và phương pháp luận của giảng viên trẻ trong các trường quân đội
Sự chuyển đổi sinh kế của người dân nà lầu, lạng sơn