Tác phẩm hay nhất của một thiên tài

Nhà soạn nhạc Giuseppe Verdi (1813-1901) được coi là Victor Hugo của nước Ý. Cha ông vốn là nông dân ở một thị trấn nhỏ, về sau mở một quán cà phê kiêm tạp phẩm. Thu nhập dù vậy vẫn hầu như bấp bênh và ít ỏi. Từ bé, Giuseppe Verdi đã tỏ rõ năng khiếu âm nhạc siêu phàm. Một chức sắc địa phương đỡ đầu ông và tạo điều kiện cho ông học hành đến nơi đến chốn. Kiến thức thu được giúp ông phát lộ dần tài năng thiên bẩm. Vừa học xong, năm 1836, ông được cử cai quản nhà nguyện của thị trấn quê nhà. Nhưng hai năm sau, ông từ chức. Đơn giản, công việc này bảo đảm cuộc sống vật chất cho ông, nhưng buộc ông xếp xó tài năng âm nhạc của mình. Kết hôn với con gái cha đỡ đầu, năm 1838, ông chuyển tới Milano, trung tâm văn hóa Ý bấy giờ. Do, chỉ ở đây, ông mới có thể tỏa sáng và tham gia hữu hiệu vào phong trào giành lại độc lập và thống nhất cho Ý. Ban ngày, ông làm những việc vặt để kiếm sống, ban đêm, ông hăm hở sáng tác như không còn biết đất trời là gì nữa. Năm 1839, vở nhạc kịch đầu tiên của ông được hoan nghênh nhiệt liệt. Vở thứ hai, năm 1840, bị chê bai thậm tệ. Thất bại là do ông lâm vào khủng hoảng tinh thần: từ 1838 tới 1840, hai con liên tiếp chết yểu, không lâu sau, người vợ trẻ cũng lìa đời. Bất hạnh quá lớn tưởng như đánh gục ông mãi mãi. Tuy nhiên, biết tiếng ông từ lâu, một nhạc sĩ đã tìm tới ông, tặng ông một kịch bản, để ông tạo nên một nhạc kịch. Kịch bản rất hay, điều đó khiến ông vùng dậy. Một vài chi tiết trong kịch bản thức tỉnh trong ông lòng yêu nước tiềm tàng. Ông lao vào viết vở nhạc kịch Nabucco, thắng lợi lớn vào năm 1842, dấu mốc quan trọng trong cuộc đời và sự nghiệp của nghệ sĩ nặng lòng với những lớp người thấp cổ bé họng, tức quảng đại dân thường, thời ấy chưa được thừa nhận.

Từ năm1843 đến 1851, ông hoàn thành 12 vở nhạc kịch. Không phải vở nào cũng tuyệt mỹ, nhưng tất cả đều cuốn hút cả khán giả bình dân và quý tộc. Giai đoạn tiếp theo, từ năm 1853 tới 1871, ông viết chậm lại, trung bình ba hay bốn năm một vở. Vở nào cũng được đón nhận nồng nhiệt. Thành công đáng mừng đó ở chỗ nhân vật toàn diện hơn, chân thực hơn và người hơn. Sau đó, ông im lặng 16 năm trời. Trừ năm 1874, ông cho ra mắt tác phẩm thiên tài Khúc tưởng niệm, tri ân văn hào Alessandro Manzoni (1785-1873), cây bút đồng hương, người có công lớn trong cuộc giành lại độc lập và thống nhất Tổ quốc. Hiển nhiên, các tác phẩm của ông vẫn liên tục được trình diễn. Vì vậy, thu nhập của ông vẫn vào hàng cao nhất thời ấy. Ông im lặng do thức thời. Dạo ấy, xuất hiện một lớp tác giả nhạc kịch mới, với tài năng đầy triển vọng, ví như hai tác giả người Pháp: Bizet, Massenet và tác giả người Đức: Wagner, vừa xuất hiện đã gây ấn tượng không ngờ. Ông không muốn mình và sáng tác của mình bị đem ra so bì với cánh trẻ. Ở hiền gặp lành, ông tình cờ được nhà viết kịch Arrigo Boito, sinh năm 1842, tha thiết đề nghị ông viết nhạc kịch cho hai kịch bản mà Boito sáng tác từ hai kiệt tác của nhà viết kịch Anh vĩ đại William Shakespeare (1564 – 1616): Othello (1604) và Henri IV (1597 – 1598). Với kiệt tác thứ nhất, Boito giữ hầu như nguyên câu chuyện và tên vở kịch. Với kiệt tác thứ hai, Boito đi sâu vào Falstaff, nhân vật vào loại đặc sắc nhất của tác giả số một địa cầu. Phảng phất AQ của Lỗ Tấn, Chí Phèo của Nam Cao, nhân vật ấy đa dạng hơn nhiều, chủ yếu ở tính hài hước. Ấy là điển hình của bi hài kịch một thời của tranh giành quyền lực ác liệt. Boito lấy tên Falstaff đặt cho kịch bản của mình. Verdi thích thú với hai kịch bản và vui vẻ nhận lời viết nhạc cho chúng, rồi đắm mình vào lao động. Othello, hoàn thành năm 1887, khi Verdi 74 tuổi; Falstaff, hoàn thành năm 1893, khi ông 80 tuổi, chúng đều trở thành hai tác phẩm kinh điển của nhạc kịch toàn cầu. Chúng minh chứng cho khả năng đổi mới phi thường, tức sức thanh xuân vĩnh cửu của một nghệ sĩ gắn bó sâu nặng với Tổ quốc và nhân dân… Một trong những đổi mới đó là đi sâu vào những trăn trở thầm kín nhất của các nhân vật. Những trăn trở có thật ấy nhằm vào những gì là nhân bản, là tính người và tình người. Hôm nay, nhân vật Othello được giới chuyên môn và công chúng cảm nhận là của Verdi hơn là của Shakespeare: Với nhà viết kịch Anh đại tài, Othello là một anh hùng kiêu hãnh, không thỏa hiệp, không biết đến nghi ngờ. Với Verdi, Othello là một người dễ bị tổn thương, bị xâu xé bởi nhiều ưu tư không né tránh nổi. Chẳng hạn, ông không thể không băn khoăn, không phải một lần, rằng mình da đen, lại đã có tuổi, cô gái da trắng xuân xanh hơ hớ tôn sùng mình, liệu tình cảm nồng nhiệt chừng ấy của cô là chân thành hay vờ vịt?…

Nhiều nhạc kịch của Verdi, như Nabucco, Rigoletto, Thi sĩ đường phố, Trà hoa nữ, Don Carlo, Aida, Khúc tưởng niệm, Othello, Falstaff…, sống mãi với thời gian. Ấy là những vui buồn, yêu ghét, hy vọng và thất vọng… nảy sinh từ muôn mặt đời sống xã hội. Những tâm trạng đặc thù này của một thời cũng được ghi lại chính xác và trân trọng trong tác phẩm của những nghệ sĩ hàng đầu nhân loại. Chúng góp phần lớn vào việc ghi dấu vĩnh viễn bộ mặt tinh thần riêng có của một thời đại, một xã hội. Bộ mặt ấy của thời Verdi sáng tác là tinh thần dân tộc Ý tỏ ra mãnh liệt hơn bao giờ hết. Tinh thần dân tộc đó là sự cộng hưởng cao độ của lòng yêu nước, ý chí độc lập tự do sục sôi bấy giờ của nhân dân lao động, quý tộc và tinh hoa xã hội. Sự thật này được nhiều văn nghệ sĩ Ý thời ấy nhận ra và phản ánh chân thực, xúc động. Nhờ gần gũi người lao động bình thường, Verdi nổi trội hẳn lên một cách đáng kinh ngạc. Không phải ngẫu nhiên, Verdi được tôn sùng là anh hùng dân tộc, lãnh tụ tinh thần của nhân dân Ý cương quyết giành lại độc lập và thống nhất cho Tổ quốc. Thậm chí, ông vẫn được ghi nhận là người phát ngôn hùng hồn bậc nhất cho khát vọng tự quyết của mọi quốc gia và cộng đồng. Ý từng bị nhiều thế lực ngoại bang xâm chiếm và xâu xé từ cuối TK XIV. Cho tới đầu TK XIX, phong trào đấu tranh đòi độc lập và thống nhất đất nước bắt đầu rầm rộ. Đến năm 1861, về cơ bản, mục tiêu ấy đã đạt được. Hơn 10 năm sau, Ý mới có được lãnh thổ như bây giờ. Nhân dân Ý ngoan cường chiến đấu tiếp tục với các thế lực ngoại bang, chưa chịu từ bỏ giấc mộng nô dịch họ. Do đó, mãi tới năm 1946, nước cộng hòa Ý mới chính thức được thành lập.

Đề tài nhạc kịch của Verdi khá đa dạng, chủ yếu là chuyện xưa, chuyện nước ngoài. Nhưng hồn cốt của tác phẩm lại rất thời sự. Đó đều là những khát vọng độc lập tự do nóng bỏng, bộc lộ qua những trạng thái tâm lý điển hình, không chỉ của nhân dân Ý thời ấy. Hiếm nghệ sĩ nào gặp nhiều may mắn như ông. Bấy giờ, nhà hát Scala ở Milano là một thánh đường âm nhạc, chỉ dành cho những tên tuổi đã và đang nổi như cồn. Nữ ca sĩ nhạc kịch Giuseppina Strepponi (1815 -1897) cảm nhận ngay được tầm vóc giá trị nhân văn và nghệ thuật của Verdi, khi ông mới trình làng hai vở, trong đó có một vở kém cỏi. Bà lớn tiếng yêu cầu Scala cho ông xuất hiện tức thì trên sân khấu của mình, vốn dành cho khán giả tinh hoa. Năm 1842, tại Scala, vở Nabucco của ông, mà Giuseppina Strepponi thủ vai nữ chính, thành công ngoài mong đợi, được trình diễn 57 buổi liên tiếp, một kỷ lục thời đại. Quá say mê nhân vật và độ siêu thâm trầm nhân bản của Verdi, bà đã căng hết sức lực thể chất và tâm hồn của mình, nên giọng bị hỏng. Bà không thể trình diễn được nữa. Bà không luyến tiếc sự cháy hết mình của bà cho nghệ thuật đích thực siêu phàm. Năm 1846, bà đành tạm xa quê nhà, tới sống ở Paris, chuyển sang dạy hát. Verdi thì sửng sốt vì tình yêu người, yêu đời cháy bỏng của nữ nghệ sĩ. Ông choáng váng vì sự đồng cảm gần như tuyệt đối của bà với mình. Năm 1847, Verdi sang Paris, tìm tới bà, định bụng để ngỏ lời cảm phục và cảm tạ. Nhưng rồi, như định mệnh, hai người tức thì bén duyên đôi lứa. Năm 1849, bà về sống ở quê chồng. Cuộc sống chung diễn ra hạnh phúc viên mãn. Năm 1859, tức sau 10 năm chung sống, hai người mới làm đám cưới. Còn hơn một người vợ, người bạn, bà trở thành một người đồng sáng tạo không dễ có trong cuộc đời một nghệ sĩ. Bà luôn sát cánh với Verdi, trong mọi sáng tác của ông. Bà cùng thảo luận với ông các ý tưởng, cốt truyện, chi tiết từng cảnh, sữa chữa, bổ sung, hát thử liên tục, để ông chỉnh sữa, đạt tới tầm mong đợi.

Quan niệm sống của Verdi quyết định việc ông xử lý đúng đắn các vấn đề sáng tác và đời thường. Chuyện tình vừa kể là một ví dụ. Như đã đề cập bên trên, Verdi thuộc những nghệ sĩ toàn tâm, toàn ý cho nhân dân và đất nước, với vũ khí phụng sự là âm nhạc. Bất cứ điều gì có thể làm để bày tỏ lòng yêu thương nồng nàn và bất tận đối với dân và nước, ông đều cương quyết làm bằng được. Năm 1848, ông mua một khu đất rộng, cách thị trấn quê ông ba cây số. Ở đó, ông xây nhà ở và làm việc, đồng thời mở một nông trại kiểu mới, mà ông đích thân điều hành, chẳng khác một ông chủ có tâm và có tầm thực thụ. Hai trăm gia đình nông dân được ông mời lao động và sinh sống trong trang trại. Ông tạo mọi điều kiện cho họ có cuộc sống dễ thở. Họ được ông coi như người thân, cũng là nguồn vô tận các chiêm nghiệm lẽ đời. Tất cả nhạc kịch về sau của ông đều được viết trong không khí nông trại. Như văn hào Nga Xô viết M.Cholokhov (1905 – 1984) có máy bay và sân bay riêng, Verdi cũng có xe ngựa sang riêng, đi về khắp nơi, ở Ý và châu Âu, mau chóng và thuận tiện. Ông được dân bầu làm nghị sĩ, hoạt động xã hội phong phú và hiệu quả. Ông là tiếng lòng của những người cùng khổ, nhà thơ của thế giới bên lề xã hội, ông trở thành một nhân vật quan trọng của cả châu lục. Với đa phần tác phẩm không lỗi mốt, vĩnh viễn thời sự và được yêu thích, Verdi mãi sát cánh với nhân dân. Là người trung thành với quê cha đất tổ, với Tổ quốc, với các truyền thống dân tộc, ông luôn yêu thương và trân trọng những người dân nghèo khổ. Năm 1898, ông khánh thành một nhà dưỡng lão rộng lớn ở quê hương do ông bỏ tiền túi xây dựng, dành cho người dân có tuổi không nơi nương tựa. Từ năm 1885, ông cho xây dựng một biệt thự đặc biệt, theo thiết kế của một kiến trúc sư nổi tiếng đương thời. Năm 1889, hiện ra lộng lẫy biệt thư rộng lớn hai tầng, năm 1930 thêm một tầng nữa, ở quảng trường Michelangelo Buonarotti, thành phố Milano. Verdi muốn mời những người hoạt động âm nhạc khó khăn về tài chính tới đó sống thanh thản những năm tháng cuối đời. Từ đầu, ông đã rất thận trọng khi đặt tên cho biệt thự. Ông không gọi đây là nhà tế bần, nhà tình thương, mà là viện an dưỡng. Viện an dưỡng chỉ nhận khách sau khi ông khuất núi, để tránh cho họ mặc cảm mang ơn tủi lòng.

Viện an dưỡng Verdi có một hầm mộ rộng đẹp. Đây là nơi an nghỉ ngàn thu bên nhau của ông và bà Giuseppina Strepponi, mà buổi nhập mộ là một sự kiện lớn: 900 ca sĩ và nhạc công tấu bài đón rước thiêng liêng, oai hùng. Viện có nhiều phòng, một phòng chung rộng rãi để biểu diễn, vài phòng trưng bày những kỷ vật quý nhất của Verdi, đồ cổ, dương cầm…, tặng phẩm của các nhà vua, bạn hữu. Nhiều phòng luyện hát, chơi đàn. Thường mỗi khách được ở một phòng riêng, luôn được một nhân viên y tế gần gũi, chăm lo sức khỏe… Chỉ nhận khách mới khi một khách cũ qua đời. Viện bắt đầu hoạt động từ năm 1902, sau khi Verdi rời cõi tạm năm 1901. Kinh phí là toàn bộ bản quyền nhạc kịch mà ông hiến tặng. Do nhạc kịch của Verdi vẫn được trình diễn liên tục ở nhiều nơi trên thế giới và Ý, tiền bản quyền vẫn đáng nể, đủ cho Viện an dưỡng Verdi tự chủ về tài chính một cách đàng hoàng. Gần đây, Viện cũng nhận những khoản tài trợ của các nhà hảo tâm. Gần 120 năm qua, Viện là một địa chỉ văn hóa hàng đầu của Ý. Không nợ nần, không bê bối, chỉ có âm nhạc, niềm vui sống và trân quý con người, Viện là biểu tượng của một tấm lòng bè bạn, một lời chúc chí nghĩa chí tình, rằng quý nhất của vũ trụ là con người, quý nhất của xã hội là nghệ sĩ, xin đừng làm tổn thương hoặc xâm hại sự thật ngàn đời ấy của nhân loại. Căn cốt của nghệ thuật là suy tôn con người, nhân tình và nhân tính. Năm đầu, Viện đón tiếp 5 nam và 4 nữ, họ đều là nhạc sĩ già. Khi mới vào Viện, họ không sao tin nổi diễm phúc như của Chúa Trời ban tặng. Đến nay, hàng trăm người làm âm nhạc tiếp tục hưởng những năm tháng cuối đời thoải mái ở đó. Bao thế hệ quản lý và phục vụ khách tại Viện luôn thực hiện đúng tâm nguyện của nhà nhạc sĩ bất hủ và bất tử. Họ giúp cho hình ảnh của Viện thêm mỹ lệ, hình ảnh báo trước đời sống của nhân loại ngày mai: bất kỳ ai khi nhắm mắt xuôi tay cũng cảm thấy mãn nguyện, rằng mình đã lao động và yêu thương hết mình cho tất cả, tất cả cũng yêu thương và trân trọng mình hết tầm. Hiện nay, có 65 nghệ sĩ đang an dưỡng tại Viện, trong đó 50 người là ca sĩ, nhạc công, nhạc sĩ, tuổi hầu hết trên 70, có vị gần 100 tuổi, 15 người là sinh viên các nhạc viện Ý. Một cụ bà 95 tuổi, người Rumani, hoạt động âm nhạc sôi nổi qua nhiều nước, từng sống ở Nga, Pháp, Mỹ, cuối cùng về đây, như trở lại ngôi làng thơ ấu. Một nhạc sĩ Pháp, từng sống 20 năm trên một chiếc tàu thủy, từng bôn ba bốn biển năm châu, giờ thấy Viện an dưỡng Verdi mới là nhà của mình. Các sinh viên đều học tập ở các Viện âm nhạc, nhưng được chọn ăn ở tại Viện, vì tình yêu âm nhạc đích thực, vì hoàn cảnh gia đình, vì tài năng giao hòa và tháo gỡ những mối bận tâm của người lớn tuổi… Cánh trẻ học tập được kinh nghiệm sống, kinh nghiệm sáng tác hay biểu diễn của các bậc lão trượng. Viện Verdi quanh năm ngày tháng tràn ngập âm nhạc. Buổi sáng, một vài nghệ sĩ chơi đàn, hàng chục người còn lại tới chăm chú thưởng thức. Buổi chiều, cả Viện biểu diễn tập thể. Các tiết mục đơn ca, độc tấu, đồng ca hoặc hòa tấu nối tiếp nhau tưng bừng hoặc réo rắt, trong ngất ngây và xúc động của mọi người. Ở đó, âm nhạc là tất cả. Ở đó, cuộc đời là sự hòa hợp, du dương và thánh thiện. Ở đó, người ta thanh thản ra đi trong tiếng nhạc. Ở đó, tiếng nhạc chào đón những nghệ sĩ trở về sau một đời hết mình cống hiến cho nghệ thuật. Ở đó, hình bóng vợ chồng Verdi vĩ đại luôn ẩn hiện, chúc mọi sinh linh trên đời luôn luôn giao hòa bình đẳng, yêu thương, quý trọng nhau và quý trọng cộng đồng.

Giao hòa không chỉ giữa các đồng nghiệp cùng trang lứa, mà cả giữa các thế hệ, giữa các vùng miền khác biệt – ấy là nét đẹp mới của Viện an dưỡng Verdi, “tác phẩm hay nhất” của Verdi, như chính ông từng thổ lộ đầy trân trọng và tin tưởng…

Tác giả: Công Tường Vân

Nguồn: Tạp chí VHNT số 452, tháng 2-2021

Đánh giá post

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *