Bạo lực gia đình (BLGĐ) không phải là vấn đề mới, song vẫn đang tồn tại như là một vấn nạn xã hội. Nghiên cứu quốc gia về BLGĐ với phụ nữ tại Việt Nam năm 2010 cho thấy cứ 3 phụ nữ đã có gia đình thì có 1 người (34%) cho biết từng bị chồng bạo hành về thể xác hoặc tinh thần (1). Hậu quả của bạo lực gia đình ảnh hưởng nghiêm trọng tới đời sống cá nhân, gia đình, cộng đồng trên mọi phương diện, làm cản trở quá trình thăng tiến của các cá nhân và sự phát triển chung của toàn xã hội. Nhìn lại chặng đường phòng chống BLGĐ ở nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam, dễ dàng nhận thấy, trước đây, đa phần các chương trình, hoạt động về BLGĐ đều tập trung vào việc trợ giúp nhóm nạn nhân. Cách tiếp cận này đã đạt được một số hiệu quả nhất định. Tuy nhiên tình trạng BLGĐ vẫn tiếp diễn. Từ đó, các chương trình phòng chống BLGĐ đã chú ý thêm tới đối tượng cần can thiệp là nhóm nam giới gây bạo lực. Thực tế cho thấy, nam giới là nhân tố gây ra bạo lực, vậy làm thế nào để nhóm này có thể tự chấm dứt được hành vi bạo lực? Để làm được điều này, nam giới cần phải có được những nhận thức đúng đắn hơn về nam tính, về vị trí, vai trò của mình trong xã hội.
Nghiên cứu này tìm hiểu về sự tác động thay đổi nhận thức của nhóm nam giới có nguy cơ gây BLGĐ với mong muốn nhằm giảm thiểu tình trạng BLGĐ đang diễn ra tại Việt Nam. Nghiên cứu này được thực hiện với các phương pháp phân tích tài liệu, phỏng vấn sâu và lấy ý kiến chuyên gia. về thực trạng BLGĐ do nam giới gây ra tại địa phương, những yếu tố dẫn đến BLGĐ, từ đó đề xuất và mô tả cách thức thay đổi nhận thức cho nhóm nam giới có nguy cơ, nhằm giảm thiểu tình trạng BLGĐ. Nghiên cứu được khảo sát tại địa bàn xã Quảng Nham, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa.
1. Thực trạng BLGĐ do nam giới gây ra tại địa phương
Hầu hết các vụ BLGĐ trên địa bàn đều do nam giới gây ra với các hình thức phổ biến nhất là mắng chửi, lăng mạ và đánh đập; tiếp theo là đuổi khỏi nhà hoặc kiểm soát chi tiêu. Như vậy, BLGĐ ở xã Quảng Nham gồm các hình thức sau:
Bạo lực thể chất
Đây là hình thức BLGĐ phổ biến nhất. Trong đó, hành vi tát, đánh đập, dùng vũ lực hay các vật dụng gây thương tích cho đối phương là phổ biến. Số phụ nữ là nạn nhân chiếm tỷ lệ cao, xuất phát từ thực tế là người chồng cho rằng việc có tát hay đánh vợ một cái cũng chỉ là hình thức dạy vợ. Thực tế qua thu thập thông tin, có những nạn nhân cùng một lúc phải chịu rất nhiều những hình thức bạo lực thể chất khác nhau. “Những lúc uống rượu về, ông ấy thường đánh tôi bằng cán chổi, đạp tôi xuống đất, rồi liên tiếp đá vào người tôi. Phải đến mấy tuần sau mới hết đau” (nữ, 45 tuổi)… Hậu quả bạo lực thể chất ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe nạn nhân. Những thương tích trầm trọng có thể gây nguy hiểm đến tính mạng của nạn nhân.Với một số trường hợp, đôi khi cần giải thoát khẩn cấp để bảo toàn tính mạng.
Bạo lực tinh thần
Đây là hình thức bạo lực thường đi cùng bạo lực thể chất bởi nó cũng là hậu quả của bạo lực thể chất gây ra. Bạo lực tinh thần khá phổ biến nhưng khó nhận biết do nó không để lại thương tích rõ rệt trên cơ thể để phát hiện hay khai báo. Nhiều khi chính nạn nhân cũng chưa nhận biết được mình đang bị bạo lực tinh thần, chỉ cho đến khi tác hại của nó khiến biểu hiện những vấn đề rõ rệt về mặt sức khỏe như: trầm cảm, khủng hoảng, stress, đau đầu, các chứng về thần kinh… Mặc dù bạo lực tinh thần gây ra hậu quả nghiêm trọng không kém gì bạo lực thể chất, song việc phát hiện hay xử lý vấn đề trên thực tế rất khó khăn.
Bạo lực kinh tế
Tương tự như bạo lực tinh thần, biểu hiện của hình thức bạo lực này thường không lộ ra bên ngoài như bạo lực thể chất. Người ta có thể kiểm soát, xét nét hoặc không cho đối phương được sử dụng tài sản hay chi tiêu trong nhà. Việc kiểm soát chi tiêu hay bao vây về kinh tế, tuy không gây hậu quả trực tiếp nhưng lâu dần sẽ khiến thành viên trong gia đình mệt mỏi, khó chịu. Đôi khi từ những bất đồng này lại dẫn đến bạo lực thể chất.
Riêng hình thức bạo lực tình dục không thấy được thống kê, song khi tìm hiểu về nguyên nhân xảy đến bạo lực qua phỏng vấn sâu thì có không ít phụ nữ trả lời rằng “nhiều khi do ông ấy muốn mà tôi quá mệt nên không chiều được”… Thực ra đây là một dạng bạo lực thầm kín, rất khó để người trong cuộc thổ lộ ra hay bên ngoài phát hiện được. Bởi trong nhận thức của nhiều người, tình dục là đặc quyền của đàn ông, vợ phải chiều chồng, vợ phải có nghĩa vụ thỏa mãn những nhu cầu của chồng. Vì thế nên tình dục đáng lẽ ra là quyền thì trong nhiều trường hợp lại trở thành nỗi khiếp sợ đối với một số người. Chính bởi những khó khăn khi tiếp cận như vậy nên có thể cho rằng bạo lực tình dục đang được giấu sau hai lớp cánh cửa, lớp cánh cửa của gia đình và lớp cánh cửa của hai vợ chồng. Để phá vỡ những rào cản từ hai cánh cửa này không phải chỉ một sớm một chiều mà phải lâu dài.
2. Các yếu tố tác động dẫn đến BLGĐ tại địa phương
Tư tưởng nam quyền và bất bình đẳng giới
Tư tưởng nam quyền, thể hiện ở quan điểm trọng nam khinh nữ, là một yếu tố mang tính phong kiến vẫn duy trì cho đến ngày nay. Từ xưa đến nay, trong gia đình, quyền uy của người đàn ông luôn cao hơn người phụ nữ. Dựa vào quyền uy ấy, nhiều ông chồng tự cho mình cái quyền được đánh vợ, coi đánh vợ như là một sự “giáo dục” và thể hiện quyền lực của bề trên với kẻ dưới. Đây cũng chính là một biểu hiện của bất bình đẳng giới.
Yếu tố ảnh hưởng mạnh mẽ nhất khiến gây ra xung đột gia đình, đó là tư tưởng trọng nam khinh nữ (77%). Ở địa bàn xã Quảng Nham thì tư tưởng này càng chiếm lĩnh mạnh mẽ, bởi làng biển luôn coi trọng sức vóc đàn ông để đương đầu với sóng gió đi biển. Đó cũng là lý do mà các hộ gia đình ở đây đều sinh nhiều con, đặc biệt phải đẻ cho bằng được con trai mới thôi. Chính suy nghĩ định kiến ăn sâu như vậy đã hình thành nên tư tưởng dạy bảo vợ thì đôi khi có bạo lực là điều khó tránh khỏi của những người đàn ông nơi đây. Đây cũng chính là lý do mà vì sao việc xung đột gia đình bởi các nguyên nhân như: thói quen đàn ông (37%), vợ không làm theo ý muốn (32%), vợ hay nói nhiều (41%) đều chiếm tỷ lệ cao.
Tệ nạn xã hội
Tệ nạn xã hội như: rượu chè, cờ bạc, lô đề, cá độ, nghiện hút… là một trong những yếu tố thúc đẩy xung đột và BLGĐ. Ở trên địa bàn xã Quảng Nham thì tỷ lệ nam giới vướng mắc vào rượu chè, cờ bạc là nhiều nhất. Đây cũng là nguyên nhân dẫn đến bạo lực gia đình chiếm tỷ lệ cao thứ hai: 68%. Trong đó, rượu là thứ ma men trực tiếp kích thích những hành vi bạo lực. Nhiều nam giới sau khi uống rượu vào rồi đánh vợ, sau đó ngụy biện rằng do mình không làm chủ được bản thân.
Kinh tế gia đình khó khăn
Kinh tế gia đình khó khăn, nghèo đói cùng với việc làm không ổn định, thất nghiệp đã khiến nhiều gia đình trở nên lục đục. Những áp lực nhu cầu sinh hoạt hàng ngày khiến cho họ luôn căng thẳng, đặc biệt là nam giới. Ở Quảng Nham, phần lớn đàn ông theo nghề đi biển. Với một số ít hộ có điều kiện thì có tàu hoặc thuê tàu đi đánh bắt khơi xa. Còn lại phần đông là kéo rùng hoặc chài lưới ven bờ, hoặc đi làm thuê cho các tàu cá. Nghề đi biển phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên. Sự không ổn định của khí hậu và thiên tai làm nhiều người đi biển hay nuôi trồng thủy sản bị thiệt hại nặng nề. Nam thanh niên, giờ nhiều người không đi biển, hoặc làm tự do. Tính chất công ăn việc làm không ổn định, bấp bênh cùng với sự nghèo đói, đông con đã khiến cho nhiều mâu thuẫn, xung đột trong gia đình nảy sinh và kết quả là biểu hiện của bạo lực gia đình. Nguyên nhân này chiếm tỷ lệ 63%.
Ngược lại, khi người vợ không có việc làm, họ bị phụ thuộc vào người chồng. Trong mắt chồng, họ bị coi là những kẻ ăn bám, các hành động bạo lực diễn ra dưới các hình thức như mắng, chửi, đánh đập khi người vợ làm trái ý họ. Như vậy có thể thấy rằng BLGĐ là một trong những hệ quả của đói nghèo cùng với định kiến giới.
Nhận thức không đầy đủ
Nhận thức không đầy đủ về BLGĐ, về bình đẳng giới là yếu tố có phổ chi phối rộng rãi, bao gồm cả nạn nhân, thủ phạm bạo lực và cả cộng đồng. Phụ nữ là nạn nhân của bạo lực không dám lên tiếng, mà vẫn cam chịu. Có nhiều lý do cho hiện tượng này. Trước hết vẫn là tư tưởng xuất giá tòng phu, chăm sóc và cung phụng chồng. Tâm lý của người phụ nữ vì thương chồng nên cũng muốn giấu giếm. Quan điểm truyền thống: tốt đẹp phô ra, xấu xa đậy lại…đều là những sợi dây buộc người phụ nữ vào trong cái cánh cửa gia đình mà âm thầm sống cho dù chuyện gì xảy ra. Sự cam chịu của họ cũng đã tiếp tay cho sự tái phạm của chồng. Thậm chí, có người trong số họ nghĩ rằng, bị đánh đập là điều bình thường, là lỗi tại mình. Với nam giới là thủ phạm gây bạo lực, có quá nhiều lý lẽ để biện minh cho hành động của họ. Tư tưởng nam quyền, các điều kiện ngoại cảnh tác động như đã phân tích ở trên đều là những lý do khỏa lấp cho hành vi bạo lực. Bản thân nhiều nam giới cho rằng bạo lực là đặc quyền của đàn ông.
Cộng đồng người dân còn tồn tại nhiều định kiến giới, ăn sâu bám rễ, chưa nhận thức về bình đẳng giới. Trong bối cảnh tư tưởng vẫn định hình về khuôn mẫu giới với các đặc quyền của nam giới, lại cộng thêm với quan niệm chuyện mỗi nhà mỗi cảnh, chuyện nhà ai nhà đấy lo… đã dẫn đến thái độ chưa quyết liệt trong việc phòng chống BLGĐ.
Sự thực thi luật phòng chống BLGĐ chưa chặt chẽ
Việc can thiệp của chính quyền địa phương dựa trên luật phòng chống bạo lực gia đình, chủ yếu là các hình thức như nhắc nhở, kiểm điểm, nặng hơn nữa thì gọi lên công an xã cảnh cáo. Sau đó, các thủ phạm lại tiếp tục tái diễn. Các hình thức xử lý như: xử phạt hành chính, cấm tiếp xúc giữa người gây ra bạo lực với nạn nhân hay đưa người gây ra bạo lực đi cải tạo thì hầu chưa được thực hiện. Không chỉ riêng xã Quảng Nham mà chính quyền nhiều địa phương vẫn còn nương tay đối với người gây ra bạo lực gia đình. Như vậy, có thể thấy, các nhóm nam giới có nguy cơ gây hành vi bạo lực gia đình là nhóm mang nhiều định kiến giới, nhận thức về BLGĐ, về bình đẳng giới còn chưa đầy đủ; tồn tại trong các hộ gia đình có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, vướng mắc vào tệ nạn xã hội…
3. Thay đổi nhận thức của nhóm nam giới có nguy cơ gây hành vi BLGĐ
Mô hình tiếp cận và loại hình nhóm vận dụng
Công tác xã hội (CTXH) nhóm được xem như một phương pháp can thiệp của CTXH, trong đó các thành viên chia sẻ những mối quan tâm, giải quyết những vấn đề chung thông qua các cuộc họp nhóm, các hoạt động của nhóm, nhằm đạt được mục tiêu cụ thể.
Trên cơ sở đó, phương pháp CTXH nhóm được ứng dụng trong nghiên cứu này nhằm thay đổi nhận thức để dẫn đến thay đổi hành vi gây bạo lực gia đình của nhóm nam giới, bằng cách tạo dựng một môi trường sinh hoạt mà ở đó phát huy sự tương tác giữa các thành viên có chung vấn đề liên quan đến bạo lực gia đình. Thông qua các buổi sinh hoạt nhóm, mỗi thành viên hòa nhập, chia sẻ quan điểm và cùng nhau tiếp cận các kiến thức về bình đẳng giới, các vấn đề về pháp luật với bạo lực gia đình, kỹ năng kiểm soát cảm xúc, phòng tránh những nguy cơ để thay đổi thái độ, hành vi vấn đề của mình.
Có ba mô hình tiếp cận cơ bản trong CTXH nhóm: mô hình phòng ngừa, mô hình trị liệu, phục hồi, mô hình phát triển. Cách tiếp cận mô hình nhóm với nam giới có nguy cơ gây bạo lực gia đình dựa theo mô hình phòng ngừa. Đó là dạng mô hình được thực hiện với những nhóm có nguy cơ hoặc có khả năng phải đương đầu với nguy cơ. Những nguy cơ được xác định khuyến cáo có thể là: hành vi lệch chuẩn; nhận thức không đầy đủ dẫn đến hành động xấu, tiêu cực; thiếu hoặc không đảm bảo những điều kiện, cơ hội dẫn đến sự không đảm bảo cho phát triển toàn diện cá nhân hay đời sống… Mô hình phòng ngừa sẽ tập hợp những nhóm viên có nguy cơ để tham gia hoạt động nhóm nhằm ngăn ngừa, hạn chế những hậu quả xảy đến. Nội dung và hình thức hoạt động của mô hình này chủ yếu mang tính chất giáo dục, được thực hiện thông qua các phương thức chia sẻ, truyền thông, học tập, tập huấn trang bị kiến thức, hướng đến mục đích nâng cao nhận thức, ứng dụng kỹ năng giải quyết vấn đề. Do vậy, loại hình công tác xã hội nhóm được xác định ở đây là nhóm giáo dục. Đối với nhóm nam giới có nguy cơ gây bạo lực gia đình thì mục đích của hoạt động nhóm là nhằm giúp các thành viên điều chỉnh lại những suy nghĩ không hợp lý, những hành vi lệch lạc như gây bạo lực.
Thực nghiệm vận dụng phương pháp CTXH nhóm
Nhằm giúp nam giới có nhận thức đúng đắn về vai trò của mình trong phòng chống BLGĐ và nhằm hỗ trợ cho công tác phòng chống BLGĐ đạt được hiệu quả cao hơn trên địa bàn xã Quảng Nham, từ việc phân tích cơ sở vận dụng phương pháp CTXH nhóm, xây dựng mô hình Câu lạc bộ nhóm dành cho nam giới.
Nhóm thành lập ban đầu gồm 9 thành viên, được giới thiệu qua hội phụ nữ, đoàn thanh niên và công an xã để đến tham dự. Đặc điểm nhóm: nhóm nam giới, gồm những người cư trú tại địa bàn xã Quảng Nham. Độ tuổi của các thành viên trải từ phổ 24 đến 45. Nhiều thành viên trong nhóm có hoàn cảnh gia đình khó khăn. Trong nhóm, có thành viên đã từng gây bạo lực, có thành viên gia đình thường hay lục đục cãi cọ và có cả những thành viên chưa từng gây bạo lực, thậm chí được tuyên dương gia đình văn hóa. Việc lựa chọn nhóm viên như vậy là nhằm mục đích dùng ảnh hưởng và sự tương tác của nhóm tác động đến từng cá nhân. Đa số các thành viên làm các công việc khác nhau, nhiều nhất là nghề đánh cá. Điều này tạo nên sự tương đồng lẫn đa dạng trong nhóm. Mục đích nhóm: Các thành viên trong câu lạc bộ được chia sẻ quan điểm, suy nghĩ của bản thân, được cung cấp kiến thức, thông tin về BLGĐ, hiểu rõ được hậu quả của BLGĐ, để từ đó tự điều chỉnh, thái độ, hành vi của mình đối với vấn đề này.
Tiến trình thực hiện: Hoạt động của nhóm được thực hiện dựa theo tiến trình công tác xã hội nhóm, gồm 4 giai đoạn: chuẩn bị và thành lập nhóm, khởi động và bắt đầu hoạt động; tập trung hoạt động, lượng giá và kết thúc.
Nội dung các buổi sinh hoạt trong giai đoạn trọng tâm tập trung truyền tải, chia sẻ thông tin, kiến thức và kỹ năng theo các chủ đề sinh hoạt chính sau: tìm hiểu về bạo lực và khái niệm bạo lực gia đình, các hình thức BLGĐ, tìm hiểu nguyên nhân của BLGĐ, hậu quả của bạo lực gia đình và cách phòng tránh, vòng tròn bạo lực và pháp luật có liên quan tới bạo lực gia đình, danh dự người đàn ông đến từ đâu, tôi sẽ làm gì khi tức giận, tôi sẽ làm gì để thúc đẩy sự chung sống hòa bình, biện pháp phòng chống BLGĐ…
Đánh giá những điều đạt được: các thành viên trong nhóm đều tham gia sinh hoạt tích cực, tuân thủ các nội quy của nhóm; có những buổi sinh hoạt, các tham dự viên đến đông hơn so với số lượng thành viên ban đầu của nhóm. Điều này chứng tỏ, ý nghĩa của câu lạc bộ đã được chia sẻ lan tỏa trong cộng đồng xã; các thành viên đã chia sẻ, bộc lộ suy nghĩ của bản thân về vấn đề bạo lực gia đình và bước đầu có những chuyển biến trong nhận thức về BLGĐ; các thành viên tự nguyện ký vào cam kết nhóm về việc ý thức không sử dụng bạo lực. Các thành viên sẽ là những “nhân tố nòng cốt” để phổ biến những kiến thức về BLGĐ, pháp luật về phòng chống BLGĐ và cách phòng chống BLGĐ ra toàn cộng đồng; các thành viên đã có sự giao lưu, kết nối với nhau trong quá trình sinh hoạt và mong muốn tiếp tục duy trì mạng lưới nhóm.
Hạn chế: ở những buổi sinh hoạt đầu tiên, các thành viên còn e ngại, chưa cởi mở chia sẻ, trong nhóm vẫn còn có thành viên rụt rè, ít bộc lộ; những rào cản về tư tưởng, văn hóa mang tính nam quyền chi phối ở địa phương, tác động đến các thành viên chưa thể được loại bỏ ngay lập tức và trong một thời gian ngắn; kinh phí để tiếp tục duy trì câu lạc bộ trong nhiều năm là một thử thách. Điều này đòi hỏi sự quyết tâm của chính quyền địa phương cùng với nỗ lực của ban chủ nhiệm cũng như các thành viên nòng cốt của câu lạc bộ.
Kết hợp với mô hình câu lạc bộ nhóm trong phòng chống BLGĐ
Truyền thông cộng đồng: Bên cạnh việc giáo dục cung cấp thông tin theo nhóm đối tượng đích thì truyền thông cộng đồng là một trong những biện pháp hữu hiệu nhằm nâng cao nhận thức theo tiếp cận ở phổ rộng hơn, bao gồm toàn người dân nói chung, trong đó có cả nhóm nguy cơ nói riêng. Các hình thức hoạt động truyền thông nâng cao nhận thức cộng đồng nên đa dạng hóa để thu hút sự tham gia của người dân, có thể được tổ chức dưới một số hình thức như: phát thanh, tổ chức các hội thi với nhiều hình thức như viết, vẽ, sáng tác thơ, kịch, tiểu phẩm về phòng chống BLGĐ và bình đẳng giới. Nội dung truyền thông tập trung theo các chủ đề trọng tâm để đối tượng tham dự dễ tiếp nhận.
Hỗ trợ nhóm: Cùng với câu lạc bộ nhóm là dựa trên mô hình tiếp cận phòng ngừa, trong điều kiện cho phép, địa phương có thể triển khai thêm các hoạt động hỗ trợ nhóm dựa theo mô hình tiếp cận nhóm trị liệu, phục hồi dành cho nhóm các nạn nhân hoặc nhóm các thủ phạm gây bạo lực.
Hỗ trợ cá nhân: Trong nhiều trường hợp, nạn nhân hoặc thủ phạm hoặc những cá nhân bị ảnh hưởng bởi BLGĐ (con cái, bố/mẹ, người thân sống cùng…) rất cần có sự hỗ trợ riêng biệt. Trong hoạt động hỗ trợ cá nhân, người làm CTXH trợ giúp các cá nhân này giải quyết các vấn đề về tâm lý, sang chấn; kết nối nguồn lực, hỗ trợ pháp lý, y tế, biện hộ… Tuy nhiên, để đảm đương được công việc này, đòi hỏi nhân viên CTXH phải có chuyên môn tốt và kỹ năng thực hành vững vàng.
4. Kết luận
Qua nghiên cứu tư liệu cùng với quá trình tìm hiểu thực tế tại địa bàn nghiên cứu, để tăng cường hiệu quả công tác phòng chống BLGĐ nói chung trên phạm vi toàn quốc cũng như từ thực tiễn địa bàn nghiên cứu, xin đưa ra một số khuyến nghị sau:
Tập trung hướng tới nam giới và nam vị thành niên trong các hoạt động nâng cao nhận thức về bình đẳng giới, thay đổi các định kiến giới, các chuẩn mực về nam tính.
Mô hình câu lạc bộ dành cho nam giới là một biện pháp khả thi và mang lại nhiều chuyển biến tích cực trong việc giảm thiểu tình trạng BLGĐ. Bởi vậy, nên khuyến khích thử nghiệm và nhân rộng mô hình này tại nhiều địa phương. Với các địa phương đã triển khai thực hiện mô hình này, cần cố gắng duy trì và phát triển.
Cần bổ sung và tăng cường tính chuyên nghiệp của CTXH trong thực hiện các chương trình, hoạt động về phòng chống BLGĐ. Do vậy, để thực hiện được điều này cần phải đồng hành với việc thúc đẩy chiến lược đào tạo và phát triển nghề CTXH ở Việt Nam.
Xây dựng các nhóm phòng chống BLGĐ, đưa các điển hình tốt những cặp vợ chồng đã chấm dứt sử dụng BLGĐ làm nhóm trưởng.
Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện các chiến dịch và hoạt động truyền thông phòng chống BLGĐ ở các cấp. Đặc biệt khuyến khích các sáng kiến trong công tác phòng chống BLGĐ.
___________
1. Mạng lưới phòng chống BLGĐ tại Việt Nam (DOVIPNET), Nghiên cứu đánh giá việc thực thi Luật phòng chống BLGĐ trong việc hỗ trợ nạn nhân của BLGĐ, 2009.
2. Lê Thị Phương Mai và cộng sự, Nghiên cứu Ngăn chặn bạo hành trong gia đình: Phổ biến tài liệu hướng dẫn tư vấn chống bạo hành cho các cộng đồng ở nông thôn, 2009.
3. Lê Thị Quý, Đặng Vũ Cảnh Linh, BLGĐ – Một sự sai lệch giá trị, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2011.
4. Tổng cục Thống kê & Tổ chức Y tế Thế giới, Nghiên cứu quốc gia về BLGĐ với phụ nữ tại Việt Nam, Hà Nội, 2009-2010.
5. CSAGA, Tài liệu hướng dẫn sinh hoạt câu lạc bộ phòng tránh bạo hành trong gia đình, Nxb Lao động Xã hội, Hà Nội, 2007.
6. Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới, Vụ Gia đình. Điều tra thực trạng BLGĐ, đề xuất giải pháp có tính đột phá nhằm giảm thiểu BLGĐ trong năm 2012 và giai đoạn 2012 – 2016.
7. David. B Waxler, Stop domestic violence, USA, 2006.
Nguồn : Tạp chí VHNT số 408, tháng 6 – 2018
Tác giả : NGUYỄN THU TRANG
Bài viết cùng chủ đề:
Đời sống văn hóa gia đình của người lao động di cư từ nông thôn ra đô thị và khu công nghiệp
Đám cưới của người tày ở xã tô hiệu, bình gia, lạng sơn
Tập quán và nghi lễ sinh đẻ của người việt tổ dân phố nhân mỹ, phường mỹ đình 1, nam từ liêm, hà nội