THẾ GIỚI QUAN CỦA KWABATA NHÌN TỪ CẢM THỨC VÔ THƯỜNG TRONG NGÀN CÁNH HẠC


Phật giáo du nhập vào Nhật Bản từ TK VI, ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống, văn hóa Nhật Bản. Hấp thu những thành tựu của tôn giáo, tín ngưỡng bản địa được hun đúc trong văn hóa, văn học truyền thống, nhà văn Yasunari Kawabata đã sáng tạo nên những tác phẩm mang đậm sắc màu tôn giáo huyền bí. Tác giả thể hiện thế giới quan một cách sâu sắc, thăng hoa trong cảm quan vô thường mà Ngàn cánh hạc là một trường hợp tiêu biểu. Cảm quan vô thường được thể hiện qua lăng kính của nhà văn về thời gian cuộc đời, số phận phù du, sức mạnh của cái đẹp. Từ đó, nội dung tác phẩm, tư tưởng của nhà văn được sáng tỏ qua thế giới quan vô thường.

         1. Từ triết lý vô thường của Phật giáo đến vô thường quan của Kawabata          Giao thoa giữa tôn giáo và tín ngưỡng bản địa, Phật giáo ở Nhật có ảnh hưởng riêng biệt đối với nhân sinh quan của người Nhật. Trong đó, cảm quan vô thường, triết lý nhà Phật nhằm thể hiện cái nhìn vạn vật trong bản chất biến dịch, luân chuyển, mọi trạng thái đều luôn đổi thay, vạn vật đều bị hủy hoại theo thời gian. Mọi đời sống đã có duyên khởi, duyên sinh, song luôn biến thiên, chỉ là cõi tạm. Nhân gian đôi khi không ý thức quy luật này nên vẫn cố chấp, vọng tưởng, phiền não. Tuy vậy, ngay cả khi thức nhận sâu sắc bản chất vô thường của cuộc đời, lòng người cũng không tránh khỏi ngậm ngùi mất mát. Người ta bắt gặp trong văn chương đất nước mặt trời mọc nỗi buồn vô ưu từ những hiểu biết về thế gian vô thường, một phù thế trôi nổi giữa những cánh anh đào, tiếng chuông chùa vang vọng.          Vô thường là khái niệm gắn liền với tư tưởng nghệ thuật của nhiều nhà văn nổi tiếng ở nhiều thời. Trong tùy bút Cảm nghĩ trong am (Hojoki), Kamo no Chomei đã viết: “Cái vô thường của đời người và nơi trú ngụ: sông kia chảy mãi chẳng lúc nào ngừng mà nước có bao giờ lại là dòng nước cũ”. Thơ của Ono no Komachi cũng đượm nỗi phù du của nhân gian: “Hoa đào ơi/ Nhan sắc phai rồi, Hư ảo mà thôi/ Tôi nhìn thăm thẳm/ Mưa trên đời tôi” (Nhật Chiêu dịch).          Cảm quan về một thế gian thành – trụ – hoại – không ấy còn gắn liền với cảm thức thẩm mỹ truyền thống của người Nhật, đó là mono no aware (niềm bi cảm trước sự vật, cái đẹp mà bản chất là mong manh, hư ảo). Chính vì thế, từ số phận của hoàng tử Genji chói sáng (Genji monogatari, Murasaki Shikibu) đến những vần thơ haiku trên bước đường lãng du của Matsuo Basho hay chuyến du hành tìm kiếm cái đẹp trong niềm vô vọng của Shimamura (Xứ tuyết, Kawabata Yasunari) đều phảng phất bóng dáng của đời sống đầy hư huyễn, nhân sinh chảy trôi trong những chiêm nghiệm sâu lắng.          Từ triết lý vô thường của Phật giáo ảnh hưởng trong văn hóa, văn học Nhật cho đến vô thường quan của Kawabata được kết tinh trong sự hòa quyện của nhận thức, cảm xúc tinh tế về thế giới thực tại. Các sáng tác của Kawabata vì thế có tính hướng nội, đề cao trực giác, sự khám phá thế giới tinh tế đầy chiều sâu nội cảm. Đọc Kawabata, từ truyện ngắn, truyện trong lòng bàn tay đến tiểu thuyết, người đọc luôn thấy mình chảy trôi trong một thế gian đầy biến thiên, như đoàn tàu chở Shimamura lướt đi giữa chốn siêu thực mơ hồ, dải ngân hà cứ tuôn chảy trong những mất mát của hiện hữu phù du, như những chiếc chén shino lưu truyền nhiều thế hệ, soi bóng bao gương mặt đến rồi đi trong đời. Cảm quan vô thường đã ảnh hưởng sâu sắc đến cái nhìn vạn vật của nhà văn, ánh lên trong những hình tượng nghệ thuật đầy chiều sâu triết lý. Kawabata thường xây dựng các cuộc đời kết nối nhau trên dòng thời gian chảy trôi bất tận nhiều thế hệ, quá khứ in bóng như vết son môi thẫm lại trên miệng chén shino, sự sống và cái chết quyện lấy nhau như quy luật bất biến. Cuối cùng là những cái kết lửng cho một hành trình không bao giờ dừng lại, thời gian vẫn trôi, thế nhân chỉ là một hạt bụi, cháy bừng trong vĩnh hằng chỉ còn lại cái đẹp trường cửu.          2. Thế giới vô thường nhìn từ Ngàn cánh hạc          Thời gian – cuộc đời mãi trôi          Sự biến đổi của vạn vật theo quy luật sinh – trụ – hoại – diệt, cuộc đời con người cũng không nằm ngoài vòng quay đó. Vô thường chính là thời gian. Trong Ngàn cánh hạc, hình tượng nhân vật đứng sau cái bóng của thời gian, bị chi phối bởi thời gian, cuộc đời. Vì vậy, tác phẩm chủ yếu được tường thuật theo dòng hồi tưởng. Những hồi quang của quá khứ đan xen, in dấu trong từng mảng đời của các nhân vật. Ở đấy, người đọc nhận thấy cả một dòng đời xô chảy, cuốn theo tuổi trẻ, sắc đẹp, hạnh phúc, khổ đau cho đến sự suy tàn, cái chết.          Ngàn cánh hạc tuy được kể bằng ngôi thứ ba, song toàn bộ mạch truyện đi theo dòng nghĩ suy, ký ức, cái nhìn của nhân vật Kikuji, một hiện hữu mong manh giữa bao nghiệp quả của quá khứ, thực tại. Trong dòng hồi tưởng của Kikuji, xuất hiện đầu tiên là cuộc đời ngắn ngủi của người cha quá cố. Tiếp đến là hình ảnh người mẹ từng chịu nhiều thiệt thòi trong đời sống vợ chồng cũng sang thế giới khác. Tuổi thơ nhiều ẩn khuất trắc trở của Kikuji thường được tái hiện trong những khoảnh khắc hồi tưởng. Dường như Kikuji bị bủa vây bởi bao phiền muộn của ký ức trong nỗi cô đơn nơi công sở, chốn trà thất hay chính trong ngôi nhà của mình. Mọi hiện hữu như mảnh vỡ đã nằm lại đâu đó trong những sự vật đi qua đời Kikuji. Thậm chí chúng tiếp tục in bóng lên những hình hài có thật, đó là hình ảnh cha mẹ cứ lẩn khuất đâu đây trong Chikako, bà Ota, những người tình của cha chàng.          Trong Ngàn cánh hạc, những thế hệ nối tiếp nhau, vắt qua nhau bất kể tuổi tác, cái chết. Hình ảnh cha mẹ của Kikuji chỉ được tái hiện qua những mảnh hồi ức của các nhân vật, câu chuyện bắt đầu khi họ đã lùi xa về thế giới bên kia. Song trong bao hồi quang đầy nỗi trầm buồn, vẫn thấy được một dòng đời bất tận của số phận, họ đã sống, yêu, ghen ghét, chết và một phần hồn vẫn còn sống như chứng nhân cho mọi đổi thay vô thường. Điều này cũng giống như những chiếc chén, chiếc bình trong buổi trà đạo của Chikako hay trong nhà Fumiko có phần đời vài ba thế kỷ, đã qua tay nhiều trà nhân, rồi như định mệnh: từ chồng bà Ota, qua tay bà ấy, đến cha của Kikuji, lưu lạc đến trà thất của Chikako. Đặc biệt, chiếc chén, chiếc bình shino khi đến tay Kikuji gợi một xúc cảm về sự chảy trôi của cuộc đời, tưởng thuộc về bất cứ ai thì lại thuộc về thời gian. Thời gian mới là định mệnh. Từng nhân vật đến rồi đi, như cô gái nhà Inamura, đến bà Ota, Fumiko xuất hiện ngắn ngủi, rồi đột ngột tan vào hư ảo.          Có lẽ nhân vật đại diện cho sự chảy trôi của thời gian trong Ngàn cánh hạc là bà Ota, người tình xuyên thế hệ của hai cha con Kikuji. Nhân vật Ota nổi bật lên với hình ảnh về số phận con người với tuổi trẻ, vẻ đẹp, tình yêu nồng cháy. Bà Ota cũng đã một thời hạnh phúc trong tình yêu, nhưng ngắn ngủi thay khi chồng mình, rồi đến người tình lìa trần. Ota sống trong những hồi ức, hoài niệm. Sự nuối tiếc về quá vãng đã qua làm cho Ota gắn bó với chàng trai trẻ Kikuji như một cách bám víu nỗi nhớ nhung, cô đơn, sầu muộn. Bà thấy Kikuji là hiện thân của mối tình nồng nàn thuở trước. Ký ức vẫn mờ ảo sau lớp sương của thời gian, chỉ cần có sự khơi gợi là trở lại với những gì thuần khiết, tươi mới nhất. Bởi thế, khi Ota gặp lại Kikuji, xúc động không thể kiềm chế được khiến bà như muốn ôm chầm lấy anh, muốn nói điều gì. Trong Kikuji, có hình bóng của người cha, người mà Ota yêu say đắm. Chính bà cũng đã thú nhận với Kikuji khi gặp cậu: “Những ngày xa xưa hiện về rõ rệt hơn bất cứ thứ gì khác”.          Trong thời gian đang biến đổi, chỉ có thời gian tâm tưởng là trôi chậm lại với những phức cảm sâu xa. Chính Kikuji cũng đang đuổi bắt hình bóng mẹ trong hình hài của Ota và người con gái Fumiko. Cuộc tình giữa anh thanh niên trẻ tuổi với một góa phụ không chỉ là tình yêu đơn thuần. Đó có thể là những chuyển động tâm lý phức tạp của Kikuji được xem là những ẩn ức bắt nguồn từ khao khát được yêu thương trong tâm hồn lạc lõng giữa chốn ô hợp. Do vậy, ngay cả khi Ota mất đi, bên cạnh Fumiko, Kikuji vẫn không quên được bà.          Sự phù du của cái đẹp trong cõi vô thường          Trong trạng thái viên mãn của vạn vật, luôn ấp ủ sự tàn phai của thế gian. Vòng đời của nó bấp bênh vì bản chất là vô thường. Nhật Bản là một dân tộc ý thức sâu sắc điều này, nhất là khi tư tưởng Phật giáo đã bén rễ trong toàn bộ nền văn hóa Nhật xuyên suốt nhiều thế kỷ. Vì thế, ở nghệ thuật xứ sở hoa anh đào luôn thường trực một nỗi bi cảm trước thời gian, sự vật. Đẹp và buồn trở thành một đặc tính nổi bật của văn học Nhật mà ở đó nỗi khát khao theo đuổi cái đẹp hóa thành sự tiếc nuối vô bờ trước sự phù du. Motip thường thấy trong tiểu thuyết của Kawabata là vẻ đẹp trinh bạch, tình yêu không thành, những cuộc du hành, tìm kiếm trong định mệnh cô đơn. Đặc biệt, toát lên trong những tác phẩm của ông là số phận cái đẹp trầm luân, những hiện thân mong manh, ngắn ngủi của cái đẹp giữa cõi vô thường.          Trong Ngàn cánh hạc, xoay quanh nhân vật Kikuji là những cô gái trẻ xinh đẹp, những người đàn bà từng có tuổi thanh xuân đắm say. Đặt trên nền một câu chuyện trà đạo với sự gặp gỡ của thực tại, quá khứ, Kawabata làm nổi bật nét trong sáng của hai cô gái Yukiko và Fumiko, hóa thân của cái đẹp có sức mạnh hóa giải tâm hồn Kikuji. Vẻ đẹp của nàng con gái nhà Inamura được khắc họa qua hình ảnh chiếc khăn hồng có điểm ngàn cánh hạc với vẻ mềm mại, nữ tính, điềm tĩnh, tinh tế. Trong trà thất của Chikako, nàng nổi bật lên với vẻ đẹp hồn nhiên, trong sáng, vẻ đẹp thuần khiết giữa những mẩu chuyện nhỏ nhen của những người đàn bà đứng tuổi. Vẻ đẹp của nàng ám ảnh Kikuji như đang bay ngang qua vầng trời chiều ngự trị trong mắt chàng, như hương thơm của người con gái còn vương vấn trong lều hay hình ảnh nàng “nổi bật một cách khác thường trên nền tường quét sơn màu dịu”, “đánh tan bóng tối ở góc nhà”. Nàng bỗng trở nên “lung linh trong ánh sáng xuyên qua từ khung cửa căng giấy”, “tất cả những hình ảnh đó trôi dạt vào trí nhớ chàng với một vẻ trong sáng” (1). Nếu Yukiko có vẻ đẹp hư ảo, thánh thiện thì Fumiko có vẻ đẹp thực hơn nhưng không kém phần trong sáng: “Nàng đã trở thành tuyệt đối, vượt trên mọi sự so sánh. Nàng trở thành sự quyết định và sinh mệnh”. Vẻ đẹp của nàng được tuyệt đối hóa trong cảm quan của nhà văn, có quyền năng, mãnh lực lớn đến mức có thể quyết định cả sinh mệnh của con người. Sức mạnh của thánh thần, đức tin có thể thanh tẩy mọi uế tạp, hướng con người tới bản thể cao đẹp, như cứu rỗi chúng sinh. Thực tế là thứ ánh sáng từ Yukiko, Fumiko làm tâm hồn Kikuji được nâng đỡ, thanh tẩy, hướng thiện để quên đi những u buồn của hiện tại, tâm hồn trở nên thanh thản để bước tiếp trên đường đời khổ hạnh. Nàng như thiên sứ, ảo ảnh của hiện tại xuyên suốt toàn bộ câu chuyện phàm tục bởi những suy tính của Chikako, xã hội thu nhỏ trong tác phẩm. Vượt qua sự thử thách của thời gian, không gian ô uế, cái đẹp trở nên vĩnh cửu như tượng đài nghệ thuật thoát ra từ Ngàn cánh hạc.          Tuy vậy, vẻ đẹp trong thực tế không thể nằm ngoài quy luật của con tạo nên chỉ tỏa sáng trong khoảnh khắc, ra đi như vạn vật phù du. Cả Yukiko và Fumiko đều là hiện thân của vẻ đẹp vô thường. Cuối cùng, trong tâm trí Kikuji, Yukiko còn lại là “một tia sáng yếu ớt len nhẹ trong trí nhớ”, “vụt khỏi trí nhớ chàng”. Fumiko cũng ra đi, có lẽ không còn muốn gặp lại người mình yêu nữa, để lại sự nuối tiếc với mất mát, nỗi cô đơn khôn tả cho Kikuji. Hình bóng các cô gái mờ ảo trong tâm thức chàng, vụt bay như những cánh hạc xuyên qua vùng trời chiều ở cuối tác phẩm. Đẹp trong sự dang dở toát lên sự vô thường, bất định, mang lại cảm giác dư tình vương vấn mãi.          Vạn vật trong thế gian đều chịu sự chi phối của quy luật vô thường, kể cả cái đẹp. Cuộc đời này chỉ là cõi tạm, thời gian của cuộc đời qua đi theo từng giây, thời điểm hiện tại bỗng chốc đã trở thành quá khứ. Sự sống thật ngắn ngủi và phù du. Trước dự cảm về sự biến chuyển của thời gian, tâm hồn đa cảm của người nghệ sĩ không khỏi trầm lắng để suy nghiệm, dường như nhà văn muốn sống chậm lại để suy nghĩ nhiều hơn, phút giây đạt ngộ chính là sự gặp gỡ của thế giới tâm linh khi hướng về cái đẹp. Vẻ đẹp mang đậm dấu ấn Phật giáo thiền tông về sự giản dị, thuần khiết nhưng rất cuốn hút, mê hoặc. Cái đẹp là bến neo đậu cho tâm hồn bị tổn thương, cô độc của Kawabata như chính nó là sinh mệnh của văn sĩ.          Cái đẹp – sự bừng ngộ trong vĩnh hằng          Trong quan niệm thẩm mỹ của người Nhật, cái đẹp có thể tồn tại thoáng qua, xuất hiện trong khoảnh khắc dù ngắn ngủi nhưng phải bừng sáng, cũng như bông hoa anh đào sớm khoe sắc trong gió xuân rồi ra đi khi đang độ căng tràn nhất, để lại sự nuối tiếc về cánh hoa mỏng manh, đẹp lung linh giữa đất trời. Kawabata cũng tìm thấy cái đẹp riêng từ những vật gần gũi, giản dị, đơn sơ nhất như “vẻ đẹp của ly cốc dùng uống rượu, phơi ngoài hiên lữ quán” hay cái đẹp của tuyết, nguyệt, mây, bốn mùa luân chuyển của cỏ cây, đặc biệt hình ảnh người phụ nữ đẹp dung dị, thuần khiết, yếu ớt trước quy luật hủy diệt của tự nhiên. Trong chiếc lá rụng có vẻ đẹp của thời gian luân chuyển, trong nỗi buồn tình yêu tan vỡ có vị ngọt ngào sót lại của kỷ niệm xưa cũ, trong cái chết của người đẹp có niềm hạnh phúc cao ngạo của loài “phù du tóc dài” không để nhân gian hạnh ngộ đầu bạc.          Trong Ngàn cánh hạc, vẻ đẹp được kiếm tìm trong xúc cảm của nhà văn, trong trạng thái của sự tàn phai, khó nắm bắt vẻ đẹp hư ảo. Cái đẹp được cháy sáng trong nỗi buồn thanh khiết dịu dàng là sự hoài vọng, níu giữ cái đẹp truyền thống Nhật Bản, sự bừng ngộ những giá trị chân thực của cuộc sống. Vẻ đẹp của nghệ thuật trà đạo nổi tiếng của Nhật Bản bước vào buổi hoàng hôn với những hoen ố về mặt ý nghĩa, mục đích, lễ nghi, qua hình ảnh người đàn bà nhỏ nhen xấu xí Chikako. Song, hình ảnh cô gái Yukiko trong sáng với bộ kimono màu hồng nhạt, chiếc khăn thêu ngàn cánh hạc là điểm sáng, tượng trưng cho khát vọng, niềm tin gìn giữ những giá trị truyền thống vĩnh cửu. Dù cô gái chưa cứu rỗi được tâm hồn u uẩn lạc lối của chàng trai Kikuji, nhưng nàng cũng đã níu kéo được tâm hồn chàng về với miền ánh sáng. Đặc biệt hơn, cô con gái Fumiko của bà Ota, với bản chất nhạy cảm, sâu sắc, cô thấu hiểu mối tình giữa mẹ và Kikuji, đã thứ tha, dẫn dắt anh ra khỏi nỗi đau thất vọng sau khi mất mẹ. Cả Yukiko và Fumiko đã trở thành biểu tượng của vẻ đẹp trong sạch mà Kawabata đã nhắc lại nhiều lần trong tác phẩm. Tuy vậy, các nàng đều lặng lẽ biến mất khiến Kikuji trở về trong cô độc.             Trên con đường đến với cái đẹp, Kikuji đã trở nên cô đơn, độc bước. Hình bóng bà Ota in dấu mọi kỷ vật đã truyền từ tay người này sang người kia. Nước mắt của bà tan vào lớp vỏ gốm của chén trà, những vật thể ấy trở nên quá đẹp, “không hề bị vẩn đục bởi bóng tối và sự xấu xa tội lỗi”. Bà Ota đã lựa chọn con đường tự sát sau bao nhiêu dằn vặt, khổ đau, mang lại những niềm bi thương cho người ở lại nhưng đối với Ota, nàng thanh thản đến lạ kỳ. Hình ảnh Ota bừng sáng trong cuộc đời không chỉ bởi sự quyến rũ vượt thời gian của thể xác mà ở sự bừng ngộ của một tâm hồn tội nghiệp biết ăn năn. Vết son môi còn để lại trên chén trà ghi dấu sự tồn tại xuyên thế của Ota, đồng thời cũng là biểu tượng cho sự bất tử của vẻ đẹp, linh hồn trà đạo phảng trong hương trà xưa được người con gái đẹp lưu giữ. Chén shino dẫu bị đập vỡ thì hồn trà, bóng dáng Ota mãi mãi như ngôi sao hôm, vẫn hiện hữu dưới một ánh sáng khác. Qua đó cũng thấy hình ảnh trà đạo còn cháy nốt những ngày tàn theo đời phai của Ota. Hành động Fumiko nhặt các mảnh vỡ và những suy tư của Kikuji khi nghĩ về nấm mồ chôn những mảnh vỡ ấy thể hiện sự trân trọng, nâng niu những gì còn sót lại từ tàn dư quá khứ, đồng thời cũng muốn hóa thân bất tử cho chiếc chén shino ẩn chứa nhiều ý nghĩa, nhiều cuộc đời.          Trong cảm thức vô thường, cái chết là trạng thái đi đến tận cùng của con đường khổ hạnh, là sự giải thoát. Số phận của cái đẹp ngắn ngủi, phù du, mong manh, chóng tàn là biểu hiện của cái đẹp tuyệt đối. Kawabata đã hấp thu quan niệm vô thường trong Phật giáo để hóa thân cho số phận nhân vật của mình. Sự tồn tại trong khoảnh khắc, tan biến trong phút chốc mà cái chết là sự lựa chọn duy nhất làm nên cảm xúc bi ai nhưng cũng gợi nên cảm giác nhẹ nhàng, thanh thản bởi chết là mở ra một cuộc khởi hành mới, là cách để giữ gìn cái đẹp vĩnh cửu, trường tồn trong thế giới tâm linh, vượt lên khỏi quan niệm sống, sinh tồn thuần túy.          Từ thế giới quan mang đậm dấu ấn Phật giáo, Kawabata thăng hoa nhân sinh quan của mình trong Ngàn cánh hạc qua cảm quan vô thường với cách tiếp cận nhẹ nhàng, sâu lắng, tràn đầy cảm xúc, nên thơ. Cõi vô thường rất cụ thể, cũng rất mênh mông, bay bổng theo cánh hạc trên vầng trời chiều dần khép lại. Ngày mới lại bắt đầu với sự luân chuyển của cuộc đời. Trong dòng chảy của thời gian, số phận cái đẹp xuất hiện, tan biến như sương khói, ảo ảnh giữa đời thường khiến con người cứ đuổi theo, kiếm tìm, hướng tới sự vĩnh cửu trong cái đẹp biến hình. Thế giới vô thường đi đến tận cùng với cái chết, đồng thời mở ra một thế giới khác trong tâm linh với niềm tin vào tương lai dù hiện tại có phù du dâu bể. Cảm quan vô thường hiển hiện rõ trong hầu hết các tác phẩm của nhà văn, dấu ấn của tư duy sáng tạo là người nghệ sĩ đã đơm hoa cho những triết lý về cuộc đời khô cứng đó qua bản du ca trữ tình, sâu lắng Ngàn cánh hạc. Dù cuộc sống có vô thường thì cái đẹp vẫn tồn tại mãi, đây chính là lý tưởng sống, niềm tin mà con người hướng tới để sống tiếp, sống đẹp nhằm gạt bỏ những muộn phiền của hiện thực xã hội đau thương.          ________________          1. Yasunari Kawabata, Tuyển tập tác phẩm, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội, 2005, tr. 556, 557.

Nguồn : Tạp chí VHNT số 383, tháng 5-2016

Tác giả : HOÀNG THỊ MỸ NHỊ

Đánh giá post

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *