Bài hát việt 2008, cái nhìn vĩ thanh


        Sau đêm chung kết và lễ trao giải tại Cung văn hóa Hữu nghi Hà Nội, giới báo chí rầm rộ tán dương bằng những mỹ từ như: sự đổ bộ của thế hệ 8X vào nền âm nhạc Việt Nam, hay thế hệ 8X chiếm lĩnh vũ đài âm nhạc… Không thể phủ nhận, đây là sân chơi đã tạo dựng được dung mạo của nhiều tác giả, ca sĩ trẻ trước công chúng âm nhạc nước nhà. Nhưng, nhìn vào cách mà nhà đài xây dựng chương trình, cộng với sự hỗ trợ kinh phí đáng kể của một số công ty, thì chất lượng Bài hát Việt không phải không có điều đáng bàn. Và, so với lớp nhạc sĩ đàn anh, thế hệ 8X trong điều kiện như hiện nay, liệu đó có phải là niềm hi vọng?

1. Bình tĩnh để nhìn lại

Từ những năm 90 của thế kỷ trước đến nay, nếu nhìn trên mối quan hệ giữa tác giả – ca sĩ – công chúng thì ca khúc Việt Nam có chiều hướng lắng giảm. Hiện tượng này là do hoàn cảnh khách quan mang lại, đầu tiên phải kể tới sự giao thoa văn hóa giữa các nước trên thế giới trong điều kiện mà kỹ thuật thông tin truyền thông phát triển như vũ bão, đã ảnh hưởng không nhỏ tới nhu cầu thưởng thức của công chúng nước nhà. Thứ nữa, nền kinh tế đang từng bước chuyển hướng theo cơ chế thị trường không khỏi làm xáo trộn cách nghĩ, cách nhìn nhận vấn đề về văn hóa nghệ thuật nói chung và âm nhạc nói riêng. Các đoàn nghệ thuật từng bước sáp nhập rồi chia tách, thậm chí tan rã, bởi một điều rất đơn giản nhà nước không thể bao cấp mãi được. Vì thế, nhiều nhóm, ban, tốp ca – múa – nhạc với biên chế nhỏ, gọn ra đời vừa để đáp ứng nhu cầu thưởng thức của công chúng trong thời kì mới, vừa tăng thêm thu nhập để duy trì cuộc sống của những người làm nghề… Đến với công chúng, chiều theo ý thích của công chúng là một trong những mục đích hàng đầu của nhiều người hoạt động âm nhạc trong thời gian qua, đặc biệt là lớp tác giả trẻ. Muốn vừa lòng khách hàng, các ca sĩ phải chọn những bài hát phù hợp với gu thẩm mỹ của họ. Từ nhu cầu đó, kéo theo sự ra đời của hàng loạt bài hát mà giới chuyên môn gọi là ca khúc thị trường. Sân chơi nghề nghiệp của các nhạc sĩ gạo cội bị thu hẹp dần. Nhiều người không khỏi băn khoăn trước thực tế đó, thế là những cảm xúc, những sáng tạo nhiều khi đành phải kép lại. Chẳng ít các nhạc sĩ nhận được lời mời đi cơ sở viết tỉnh ca, huyện ca, trường ca, xí nghiệp ca để tồn tại. Nhìn vào thực tế, ca khúc viết về cơ sở trong những năm gần đây, tuy số lượng nhiều nhưng chất lượng không xứng tầm với tên tuổi của nhạc sĩ. Kéo theo nó là sự lan tỏa, tầm ảnh hưởng đối với công chúng của những bài hát dạng này không rộng. Tất nhiên, mỗi bài hát có sức sống dài hay ngắn còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nữa.

Cũng trong thời gian trên, các đoàn ca múa thi thoảng mới có hội diễn chuyên nghiệp. Cơ chế quen biết ảnh hưởng khá mạnh đến việc sử dụng bài của các nhạc sĩ. Nhiều bài hay không có đất để diễn. Tuy vậy, thông qua các lần hội diễn chuyên nghiệp, có thể thấy nội lực bài hát Việt vẫn khá phong phú và đa dạng với nhiều sắc màu khác nhau. Nếu đánh giá về ca khúc Việt, thì Hội diễn ca múa nhạc chuyên nghiệp sẽ là một trong những kênh cung cấp khá chính xác chất lượng của ca khúc Việt.

Như thế là, trong lúc số lượng ca khúc có chiều hướng bị “ứ đọng” thì chương trình Bài hát Việt được coi là một sân chơi có vai trò như một tác nhân làm nhiệm vụ “khai thông” dòng chảy đó. Tất nhiên, chẳng thể khác được, bởi sân chơi hay cuộc chơi nào cũng có những tiêu chí riêng, vì thế không phải lúc nào nó cũng dung nạp hết mọi đối tượng. Do vậy, công chúng nghe nhạc chẳng nên thất vọng khi thưởng thức qua chương trình Bài hát Việt mà cho rằng ca khúc bây giờ không hay như ngày xưa… Một điều phải thừa nhận và đáng ghi nhận ở đây là, chương trình đã thu hút được một lượng không nhỏ khán thính giả quan tâm theo dõi và gây được hiệu ứng tích cực cho xã hội. Diện mạo âm nhạc cũng như thẩm mỹ của lớp trẻ nước nhà trong thời điểm hiện tại phần nào đã được bộc lộ. Trên phương diện văn hóa, các nhà quản lý có thể thông qua chương trình này, coi nó như một kênh tham khảo, từ đó đưa ra những định hướng, giải pháp phù hợp để thúc đẩy sự phát triển của nền âm nhạc nước nhà trong trong thời điểm hiện tại cũng như thời gian tới.

Mới hay cũ trong Bài hát Việt năm 2008

So với ba lễ trao giải của ba năm trước đó, sân khấu lần này vẫn giữ được sự chộn rộn, sang trọng, nhưng có phần hoành tráng hơn. Ngay tiết mục mở màn Thư pháp mở hội, tuy hơi dài nhưng đã gây được ấn tượng đáng kể. Tiết mục này với phần nhạc đệm là dàn trống hội khơi gọi cho người xem hình dung ra sự tao nhã của văn hóa Việt, đặc biệt là văn hóa thư pháp nước nhà. Tất nhiên đây là sự sáng tạo lớn không ngoài mong muốn đem đến cho đêm trao giải một màu sắc khác lạ, nhưng bên cạnh đó, nó cũng gợi lại cho khán giả nhớ đến một môtip thư pháp mà họ đã từng xem trong đêm khai mạc Olympic Bắc Kinh vừa qua. Riêng tôi thì đồ rằng, tiết mục này là một điểm nhấn báo hiệu để chương trình Bài hát Việt nếu đi tiếp sẽ có cách tư duy mới, hoặc do nhiều nguyên nhân khác dễ có thể chấm dứt chương trình từng gây nhiều dư chấn trên các phương tiện thông tin đại chúng trong thời gian gần đây.

Phỏng đoán luôn thuộc về ý thức chủ quan của cá nhân, còn chương trình đêm chung kết vẫn diễn ra với trình tự vốn có của nó. Không thể phủ nhận tinh thần làm việc của hội đồng thẩm định trong suốt một năm qua, nghe 700 ca khúc để lọc được 56 bài đưa vào 8 live show và cuối cùng chọn 15 bài có chất lượng vào đêm chung kết, và 15 bài đều có giải. Nhìn vào số lượng ca khúc dự thi sẽ thấy một số vấn đề như sau:

Thứ nhất, viết ca khúc là công việc sáng tạo không phải là khó, chỉ cần có một tâm hồn nhạy cảm, cộng với khả năng về văn thơ là có thể trở thành tác giả. Nhìn ra thế giới cũng thấy điều đó, chẳng hạn bài quốc ca Pháp, quốc ca Liên Xô… là một minh chứng. Đối với nước ta trở thành nhạc sĩ còn dễ hơn nhiều, bởi khả năng thơ phú và sự nhạy cảm vốn tiềm ẩn trong nhiều con người Việt Nam. Lịch sử âm nhạc mới cũng như trong trí nhớ của công chúng còn in đậm tên tuổi của nhiều nhạc sĩ chẳng cần học qua trường lớp, nhưng tác phẩm của họ vẫn sống mãi đó sao. Ngoài đời tôi còn biết, có người một đêm còn viết được 3 đến 4 ca khúc. Khoan hãy nói đến chất lượng nghệ thuật, chỉ nhìn vào khả năng sáng tạo và lòng yêu nghề cũng đủ làm người đời bái phục. Vậy thì 700 ca khúc trong thời buổi mà cả nước biết nhạc như ngày này là số lượng không nhiều.

Thứ hai, tôi đồ rằng, trong số 700 ca khúc trên, số đông tác giả của nó là những sinh viên, học sinh nhạc viện. Nếu quả thực như vậy thì đây là sự “bứt phá ngoạn mục” trong cách nhìn của thầy trò các trường âm nhạc. Bởi những năm tháng trước đây, trong các trường âm nhạc chuyên nghiệp chưa bao giờ đề cao những người viết ca khúc, mà chỉ quan niệm rằng, đó là nghề tay trái viết cho vui. Nhạc sĩ phải là người viết khí nhạc. Trên phương diện học thuật và chức danh thì đó là cách nhìn đúng đối với các nước có nền âm nhạc phát triển và đúng với cả Việt Nam. Nhưng, thực tế đời sống âm nhạc nước ta thường có xu hướng theo chiều ngược lại: ca khúc được đông đảo công chúng đón đợi, còn khí nhạc tỏ ra mờ nhạt. Liệu số công chúng của sân chơi kia có mấy ai trong đầu nhớ được những cánh chim đầu đàn của nền khí nhạc Việt Nam như Nguyễn Đình Tấn, Nguyễn Văn Nam, Đàm Linh… Chính vai trò của ca khúc quan trọng như vậy, thì lúc này hơn bao giờ hết, chất lượng trong mỗi bài phải được đặt lên hàng đầu. Điều này thì Hội đồng Thẩm định cũng đành bó tay, mà cái quyết định hoàn toàn phụ thuộc vào người viết.

Thứ ba, 15/700 bài vào đêm chung kết, và thật ngạc nhiên 15 bài này đều được vinh danh xứng đáng trong đêm lễ trao giải. Lí do có nhiều, nhưng theo sự giải thích của một số nhạc sĩ trong hội đồng thẩm định thì bài hát năm nay có chất lượng đồng đều. Vậy nên, ngay cả việc chọn ra bài hát năm cũng là điều vô cùng khó khăn. Cuối cùng bài hát của năm thuộc về Chênh vênh của Lê Cát Trọng Lý – sinh viên chuyên ngành Viola, Nhạc viện TP.HCM. Chẳng ít lời ì xèo bàn tán của công chúng và giới báo chí, khen không nhiều mà chê thì lắm. Dẫu vẫn biết rằng chẳng cuộc chơi nào có thể đáp ứng được sự thỏa mãn của mọi người, nhất là đối với âm nhạc lại thuộc về lĩnh vực mang tính nhạy cảm, cảm tính. Nhưng quả thật, khi xem xét trên bình diện nghệ thuật thì chất lượng của ca khúc, ca sĩ thể hiện không thể vượt được mấy năm trước, nếu không muốn nói là có chiều hướng suy giảm.

Có nhiều cái cớ dễ làm người thưởng thức suy diễn. Chẳng hạn khi đặt Chênh vênh cạnh À í a (Lê Minh Sơn – 2005), Chuông gió (Võ Thiện Thanh – 2006), Con cò (Lưu Hà An – 2007), hay đặt cạnh bài không đạt giải thưởng bài hát của năm ở những năm trước như Bà tôi, Giọt sương bay lên (Nguyễn Vĩnh Tiến), Giấc mơ trưa (Giáng Son – thơ Nguyễn Vĩnh Tiến) thì sẽ đánh giá được chất lượng ca khúc trong chương trình Bài hát Việt năm nay.

Theo dõi toàn bộ bài hát trong Lễ trao giải sẽ thấy ngay ngôn ngữ trong ca khúc của các tác giả chưa lạ đã trở nên quá quen. Cái quen đó là sự bắt chước, rập khuôn giữa các tác giả. 15 bài, thì 13 bài có môtip giống nhau, lời ca sử dụng hư từ ê, ze, ô, ư… Trên phương diện nghệ thuật mà nhìn nhận, thì các tác giả sử dụng hư từ này như cách tạo “mốt thời thượng” chứ hoàn toàn không có ý đồ thêu dệt cho trọn vẹn diện mạo của một câu nhạc để tạo ra tính thẩm mỹ như các nhạc sĩ Nguyễn Cường, Phó Đức Phương, Dương Thụ… đã từng làm. Tác hại của cái vô thức này đã bẻ gãy, tạo ra sự vụn, vỡ câu nhạc và làm lệch lạc ý của lời ca. Nếu nghe nhiều lần sẽ có cảm giác rờn rợn hơn là sự thích thú.

Tính đồng phục (không phải là phong cách) cũng được thể hiện khá rõ trên nhiều phương diện khác. Chẳng hạn Em trong mắt tôiNồng nàn Hà Nội của Nguyễn Đức Cường đích thị là hai anh em song sinh. Hay cách hát của Thùy Chi – ca sĩ được yêu thích nhất trong năm – đượm màu sắc ca sĩ Khánh Linh.

Ngôn ngữ âm nhạc trong từng loại thể chưa mang tính điển hình. Lời ca nặng về kể lể thiếu tính khái quát. Có những điều kì diệu của Dazzy Dạ Lam mang ý nghĩa xã hội, nó không phải là ca khúc thính phòng. Góc tối của Nguyễn Hải Phong, mặc dù cách hát có “gầm ghì”, nhưng cũng không phải là bài hát mang phong cách rock…

Nhìn tổng thể Lễ trao giải cũng như toàn bộ live show diễn ra trong năm có thể thấy chất lượng nghệ thuật các ca khúc chưa cao. Tuy nhiên, thông qua đó, một điều không thể phủ nhận là, sân chơi đã tạo ra một không khí viết ca khúc thật sôi động cho các tác giả trẻ mà lâu nay đã có phần nhạt nhãng. Nhìn vào đó, nhiều người cũng hồ hởi phấn khởi mà cho rằng thế hệ 8X đã chiếm lĩnh thị trường âm nhạc nước nhà, ngay trong bài tổng kết Lễ trao giải, nhạc sĩ Tôn Thất Lập – Phó chủ tịch Hội Nhạc sĩ Việt Nam – cũng có nhận xét như vậy. Vui thì như thế, nhưng nếu đặt thành công ấy trong sự đối sánh với những năm tháng trước đó sẽ thấy thực chất của vấn đề.

       Trên 20 tuổi, nhất là ở thời điểm với nhiều lợi thế về mặt xã hội như hiện nay, thì rõ ràng thế hệ 8X trở thành tác giả của các bài ca khúc không phải là trẻ. Lịch sử âm nhạc mới từng ghi nhận, các nhạc sĩ thuộc thế hệ thứ nhất, thứ hai, trong hoàn cảnh chiến tranh khốc liệt, cũng ở độ tuổi này chẳng ít người đã ghi được dấu ấn trong nền thanh nhạc nước nhà. Nguyễn Xuân Khoát, Lưu Hữu Phước, Đỗ Nhuận, Văn Cao, Hoàng Việt, Huy Du, Hoàng Vân… là những minh chứng điển hình. Cũng độ tuổi này, các nhạc sĩ đã vững vàng, vững tin đủ sức để hòa cùng không khí của thời đại. Ngôn ngữ âm nhạc chững chạc, lời ca trong từng ca khúc thường có tính khái quát cao, nhiều chất thơ và đậm chất nhân văn, nó hoàn toàn không giống sự phô trương ngôn từ thiên về bề ngoài như các tác giả trẻ trong chương trình Bài hát Việt. Và, nếu được trả lời về sự thành công một bài hát nào đó, chắc rằng các nhạc sĩ cũng xúc động, nhưng không đến nỗi quá ngây ngô để chẳng biết nói gì trước công chúng như nhiều trường hợp trong chương trình Bài hát Việt…

Nguồn : Tạp chí VHNT số 298, tháng 4-2009

Tác giả : Dương Anh

Đánh giá post

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *