Quảng Bình – một vùng đất nên thơ, trù phú, nơi có những dòng sông đã đi vào lịch sử dựng nước và giữ nước hào hùng của dân tộc, nơi có những câu dân ca mượt mà, sâu lắng, thấm đẫm tình đất, tình người… Một Quảng Bình – lưng dựa vào Trường Sơn, mắt nhìn ra biển Đông, oai hùng, dũng mãnh, một Quảng Bình với núi non, sông nước hữu tình, và con người ở vùng đất này cũng đầy ắp tình nghĩa, thủy chung…
Là tỉnh thuộc Bắc Trung Bộ, Quảng Bình án ngữ con đường thông thương hai miền Bắc –
Quảng Bình là quê hương của nhiều làn điệu dân ca phong phú, đa dạng, những điệu hò, câu ví, những câu hát đối đáp giao duyên, tiếng ru hời ngọt ngào, đằm thắm… có mặt trong đời sống lao động và sinh hoạt của nhân dân. Người dân Quảng Bình có thể hò, ví, đối đáp với nhau trên ruộng đồng, trong sân đình hay trong các lễ hội… Đó là phương tiện biểu hiện sống động, hữu hiệu để các bậc nghệ nhân sáng tạo ra nhiều làn điệu, bài bản dân ca đậm đà bản sắc.
Ngoài các yếu tố như địa lý, thiên nhiên, văn hóa, tín ngưỡng…có ảnh hưởng sâu sắc đến dân ca của từng vùng, miền, thì phương ngữ là yếu tố quan trọng tạo nên bản sắc vùng miền rõ nhất. Phương ngữ được hình thành dựa trên những đặc điểm của vùng, miền, và các làn điệu dân ca chịu sự chi phối, ảnh hưởng trực tiếp về ngôn ngữ của vùng, miền đó. Quảng Bình nằm trong vùng đất ngũ Quảng, nên ít nhiều chịu ảnh hưởng các tỉnh lân cận (gần nhất là tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên Huế ở phía nam, và Hà Tĩnh ở phía bắc) về ngôn ngữ, phong tục tập quán – nhất là giọng nói cạn và hẹp. Tuy nhiên, nội tại cũng có sự khác biệt về các yếu tố như ngữ âm, ngữ điệu, thanh điệu… và một số danh từ riêng. Quảng Bình có nhiều vùng ngôn ngữ như vùng: miền núi ở phía tây (giáp Lào), bắc Quảng Bình (giáp Hà Tĩnh), và nam Quảng Bình (giáp Quảng Trị). So với 6 thanh điệu trong ngôn ngữ phổ thông thì ngôn ngữ của ba vùng nói trên đôi khi có những nét tương đồng, nhưng cũng có vùng chỉ dùng 4 – 5 thanh điệu. Chẳng hạn:
TIẾNG PHỔ THÔNG |
TIẾNG ĐỊA PHƯƠNG |
Quảng Bình |
Quạng Bình, Quang Bình |
Một mình |
Một chắc |
Đi đâu |
Đi mô, Tì nồ (miền núi) |
Đi về |
Tì nồ viền (miền núi) |
Chẳng |
Nỏ |
Không |
Khôông |
Thấy |
Chộ |
Sao |
Răng |
Củ |
Cổ |
Tráo trở |
Tráo đấu lường thưng, trở mặt |
Sao vậy? |
Răng rứa? |
Tất cả đặc điểm về địa lý, phong tục tập quán, ngôn ngữ là điều kiện để tạo nên những nét đặc trưng trong dân ca Quảng Bình.
Ví dụ: dấu huyền thành không dấu, và ngược lại; hoặc cũng là dấu huyền, nhưng khi nói hay hát, từ có dấu huyền được bắt đầu bằng từ (hay nốt) không dấu thành dấu huyền như trong bài Hò thuốc cá: đầy thành đây, bờ thành bơ…ờ.
HÒ THUỐC CÁ
Ký âm: Dương Bích Hà
Hoặc cũng trong bài Hò thuốc cá (lời 3): “Chữ thập cái lại chữ thiên/Làng ta đi thuốc bình yên thọ trường”. Ở đây yên thành yền; bình thành binh. Hoặc phát âm tiếng địa phương trong:
Anh nỏ (chẳng) thiếu chi màn loan chiếu kế…
Đừng chộ (thấy) anh nghèo tráo đấu lường thưng (tráo trở)
(Hò khoan Lệ Thủy)
Hay:
Thương em không dám ngó (nhìn) cho tường (rõ)
Không dám ngó cho rọ (rõ) sợ xóm giường (xóm giềng) họ nói răng (sao)
(Điệu Nói răng)
Từ củ khoai thành cổ khoai:
Bò con theo mẹ, mẹ cho miếng bú
Bò con theo chú, chú cho cổ khoai…
(Gọi bê – Đồng dao)
Dân ca Quảng Bình có nhiều thể loại như hò, ví, hát ru, hát sắc bùa, hát nhà trò… Mỗi thể loại có những nét riêng, nhưng lại hòa quyện với nhau thành một tổng thể đa dạng, đầy màu sắc. Chẳng hạn như ví, có Ví trấu, Ví hờ, là làn điệu mang tính chất tâm tình, tự sự, trao đổi tình cảm:
VÍ TRẤU
(Trích)
Ký âm: Dương Bích Hà
Hát đồng dao là thể loại rất phổ biến, trẻ em thường hát khi chơi, làm cho trò chơi thêm phần sinh động và hấp dẫn:
GỌI BÊ
(Trích)
Ký âm: Dương Bích Hà
Hát ru là câu hát để ru cho trẻ ngủ, và thông qua đó, người ru có thể bày tỏ những tâm sự, kinh nghiệm sống:
HÁT RU
(Trích)
Ký âm: Dương Bích Hà
Hát sắc bùa là hình thức diễn xướng tổng hợp, thường dùng để hát mừng vào các dịp như lễ, tết:
HÁT SẮC BÙA
(Trích)
Ký âm: Dương Bích Hà
Ở Quảng Bình có nhiều điệu hò, như Hò hụi (Hò mái nện) – phổ biến nhất ở Cảnh Dương huyện Quảng Trạch – cũng tập hợp nhiều làn điệu và cách thức diễn xướng khác nhau như nói lối, hò hí da, hò kéo lưới…
Hò hụi được sử dụng trong những công việc nặng nhọc như đầm đất, đắp đê, làm đường, nện móng, giã gạo, kéo thuyền… Âm điệu Hò hụi mang đậm nét đặc trưng trong phương ngữ của người dân vùng Cảnh Dương, rõ nhất ở câu “Kéo buồm ta kéo buồm lên”. Hò hụi mang tính tự sự, kể lể, nên có thể kéo dài bao nhiêu cũng được:
HÒ HỤI
(Trích)
Ký âm: Dương Bích Hà
Nhưng có loại hò lại mang tính đối đáp giao duyên, chẳng hạn như bài Hò khoan Lệ Thủy dưới đây:
HÒ KHOAN LỆ THỦY
(Trích)
Ký âm: Dương Bích Hà
Về kết cấu, Hò khoan Lệ Thủy (Hò khoan sáu mái – bắt nguồn từ làn điệu này có 6 mái, mỗi mái là một biến thể, có lề thói diễn xướng riêng) chủ yếu sử dụng thể thơ lục bát, ngoài ra còn có song thất lục bát, hoặc thể thơ song thất lục bát kết hợp nói vè, mang tính tự sự. Hò khoan Lệ Thủy là loại hình đạt đỉnh cao trong nghệ thuật âm nhạc, có ảnh hưởng rộng khắp vùng đồng bằng và ven biển của tỉnh Quảng Bình. Ca từ của Hò khoan Lệ Thủy sắc sảo, trau chuốt, ý tứ dồi dào, là sự “tổng hợp” những câu đối đáp, giao duyên, câu đố, nói lái:
…Nghiêng tai hỏi với trai khôn
Thầy mẹ sửa chậu, xây bồn mô (đâu) chưa?
Sử dụng những câu nói lái làm câu đố, câu trả lời, mang tính chất giao duyên, tâm tình:
Nữ:
Con cá đối lăn trong cối đá
Con mèo cụt nằm trên mút kèo
Trai nam nhi đối được, em đây theo về cùng?
Nam:
Con tắn hổ (rắn hổ) nằm trong tổ hắn
Cây cau tươi đứng trước cươi tau (sân của tôi)
Em hỏi thì anh xin thưa
Trai nam nhi đối đặng, em theo anh cùng về!
Hò thuốc cá ở Minh Hóa cũng là một làn điệu rất đặc trưng, đặc sắc, người dân ở đây gọi là Hát hôi lên, hoặc đơn giản là Hò thuốc. Làn điệu này thường được dùng khi người dân miền núi đi thuốc cá tập thể. Họ đi từng đoàn lên các suối, khe, lấy đá xếp lại làm cối đặt sát bờ suối. Sau đó dùng gốc cây vạt hai đầu làm chày, lấy rễ cây tèng (loại rễ cây trong rừng, có độc tố) giã nhỏ để làm thuốc đánh cá. Nước từ rễ cây chảy xuống khe, suối, đủ làm cho cá ở các vực nước sâu (như Rục Mòn khe Dinh, vực Lụy khe Sạt, vực An khe Dòn…) bị say nổi lên để họ bắt về. Khi bắt tay vào giã thuốc, họ vừa giã vừa hò để vơi đi mệt nhọc, vừa tạo không khí vui tươi, phấn khởi:
HÒ THUỐC CÁ
Ký âm: Dương Bích Hà
Hò thuốc cá có giai điệu và tiết tấu đơn giản, không dứt khoát, chắc khỏe như Hò đường trường (hò sông Mã – Thanh Hóa), nhưng từng câu hát cũng nương theo động tác giã thuốc, nhịp nhàng và uyển chuyển. Như các làn điệu hò của vùng, miền khác, Hò thuốc cá cũng có hai vế là kể và xô, ca từ mộc mạc, từ nội dung chính, người dân còn ứng tác thêm nhiều lời ca mới, tạo ra nhiều dị bản với những nội dung khác nhau. Chẳng hạn về lĩnh vực giao duyên: “Trời mưa nước chảy quanh hồi/ Anh không lấy vợ, ai đâm pồi (bồi – loại thức ăn được làm từ bắp và sắn tươi) anh ăn?”
Hoặc:
Ai lên Minh Hóa quê mình
Chè xanh, mật ngọt, thắm tình nước non…
Hiện nay, Hò thuốc cá còn được diễn xướng trong các cuộc hội hè, lễ tết, nơi sinh hoạt tập thể, hoặc có khi còn được các bà mẹ dùng để ru con ngủ, phổ biến nhất là ở các địa bàn như xã Quy Hóa, thị trấn Quy Đạt, xã Xuân Hóa, Yên Hóa… Như vậy, ngoài môi trường diễn xướng ở cạnh bờ suối, bờ khe, Hò thuốc cá còn được đưa về các vùng dân cư. Ở đây, Hò thuốc cá lại có thêm yếu tố mới mang tính lễ nghi, trang nghiêm, nên nhịp điệu khi hát khoan thai, nhẹ nhàng, và luyến láy nhiều hơn, số lượng người tham gia diễn xướng ít hơn. Khi diễn, người dân mặc trang phục giống nhau, nên có tính sân khấu hơn.
Trai thanh nữ tú cũng có thể tỏ tình, trao duyên qua điệu Nói răng đầy chất tự sự, e ấp của tình yêu đôi lứa:
NÓI NĂNG
(Trích)
Ký âm: Dương Bích Hà
Ở Quảng Bình có thể loại hát nhà trò, theo tác giả Tú Ngọc, đây là lối hát ở cửa đình vừa hát, vừa múa, cũng có lúc vừa hát, vừa gõ nên gọi là hát gõ, hoặc hát trong các ty, phủ gọi là hát nhà ty, hay hát cửa quyền. Hát nhà trò là sự kết hợp tài tình giữa thơ và nhạc, cộng thêm diễn trò và múa, là lối chơi phong lưu khéo léo:
…Thoáng trông tơ liễu nhuốm xanh vàng
Lẫn bên hồ len lỏi chiếc thuyền nan
Rừng bể ai ba đào lặng lẽ…
Trong hát nhà trò có sử dụng các điệu bồng mạc, sa mạc, hát xẩm, hát ru… Cũng giống như Lý Huế, do tính chất bài bản, trình độ nghệ thuật cao, cấu trúc gọn gàng, nên hát nhà trò cũng khó phân định ranh giới giữa dân gian và bác học. Hát nhà trò được lưu giữ, biểu diễn nhiều nhất ở Huyện Tuyên Hóa và thôn Đông Dương, Huyện Quảng Trạch, có màu sắc phong phú, đa dạng trong diễn xướng với 12 làn điệu: hát mở, hát phú, hát nói, hát khế… Khi hát, tùy theo ý tứ, nội dung của từng bài mà các ca nương thể thể hiện tình cảm lúc thì cất giọng khỏe khoắn, khi thì lịch sự đài các, lúc lại u sầu buồn bã…Với giai điệu liền bậc, nhẹ nhàng, làm cho giọng hát mềm mại, ấm áp, các ca nương chỉ ngân vần ư trong cổ, vang lên óc. Nội dung và ca từ trong hát nhà trò rất bóng bẩy, nhưng ý tứ, sâu sắc, có sức mạnh cảm hóa tâm hồn, cảm hóa xã hội. Sau hát mở có tính ngâm ngợi là làn điệu Dâng hương. Làn điệu này có sự độc đáo riêng, thường được diễn trước bàn thờ ở trong đình làng. Giai điệu lên bổng xuống trầm có tính kể lể, dẫn dắt người nghe như lạc vào chốn lung linh, huyền ảo giữa trần gian và tiên giới mong ước các thần linh dẫn dắt, dạy bảo những điều cần thiết và biết tận hưởng cõi “tâm linh” thanh thản trong cuộc sống:
DÂNG HƯƠNG
Ký âm: Dương Bích Hà
Tiếp theo Dâng hương là Dâng rượu, giai điệu và lời ca cất lên đều đều, nghe như lối tụng kinh nhà Phật. Sau Dâng rượu là Hát thơ cảnh tiên, rồi đến Luyện sơn trang… Là một sinh hoạt âm nhạc gắn với lễ nghi, hát nhà trò thể hiện niềm thành kính thiêng liêng của nhân dân lao động, là tiếng nói tâm linh, thú chơi tao nhã, khoáng đạt của đời sống tâm hồn con người trước sự thẳm sâu, đa dạng của cuộc sống.
Nguồn : Tạp chí VHNT số 360, tháng 6-2014
Tác giả : Dương Bích Hà
Bài viết cùng chủ đề:
Festival Huế – Nét đẹp văn hóa dân tộc Miền Trung Việt Nam
Nhận diện âm điệu bài chòi (p2)
Những giá trị trong nội dung hát ghẹo