Hình tượng con người trong thơ văn nguyễn phi khanh


       Nguyễn Phi Khanh (1355 ? – 1428) không chỉ là thân phụ của Nguyễn Trãi – người được coi là bậc Thái Sơn, Bắc Đẩu trong làng nho nước Nam. Bản thân Nguyễn Phi Khanh còn là một nhà thơ lớn của thời Vãn Trần – Hồ. Hơn thế nữa, ông còn là một trường hợp tiêu biểu cho loại hình tác giả nhà nho trong bước ngoặt của lịch sử xã hội cũng như lịch sử văn học thời kỳ này. Ở ông có nhiều điểm hội tụ những mâu thuẫn đại diện cho những vấn đề lớn nhất của thời đại. Ông là một nho sĩ, thân phụ của bậc đại nho tiêu biểu nhất của Việt Nam, Nguyễn Trãi, nhưng cũng lại là con rể của Trần Nguyên Đán, một đại quý tộc tôn thất nhà Trần. Đỗ đạt dưới triều Trần, nhưng không được dùng cho đến tận khi nhà Trần diệt vong, khoảng 26 năm, sang đời nhà Hồ, Nguyễn Phi Khanh lập tức ra làm quan và được trọng dụng. Con trai ông, Nguyễn Trãi cũng đỗ đại khoa và và làm quan dưới triều Hồ. Khi nhà Minh xâm lược, ông bị bắt giải sang Trung Quốc cùng cha con Hồ Quý Ly. Chúng tôi cũng cho rằng những kết quả đạt được từ việc nghiên cứu một tác giả là Nguyễn Phi Khanh sẽ là bước quan trọng để phác thảo nên diện mạo chung của loại hình tác giả giai đoạn này. Với 77 bài thơ và hai bài văn còn lại, tác phẩm của Nguyễn Phi Khanh có rất nhiều vấn đề đáng để quan tâm nghiên cứu. Ở bài viết này, chúng tôi muốn xem xét hệ thống hình tượng con người trong thơ văn Nguyễn Phi Khanh để thấy một phần đặc điểm của văn chương nhà nho giai đoạn mới hình thành.

1. Hình tượng nhà nho đang tự khẳng định

Cũng như ở văn chương nhà nho TK XIV nói chung, trong thơ văn Nguyễn Phi Khanh, loại hình tượng quan trọng nhất là hình tượng nhà nho. Đó chính là cái tôi trữ tình trong thơ văn Nguyễn Phi Khanh, là hình bóng của bản thân tác giả, trong rất nhiều tư thế, hoàn cảnh, vai trò, tâm trạng. Hình tượng nho sĩ tự nhiệm đã dần thay thế hẳn hình tượng nhà sư thông tam tế trong văn học Phật giáo, người võ tướng quý tộc hoành sóc giang sơn cáp kỷ thu trong văn chương Đông A. Nó cũng thế chỗ hoàn toàn cho hình tượng con người quý tộc đã bị Nho giáo hóa Thao qua trì bút phiến vân thân trong văn chương của loại hình tác giả có tính chất cầu nối như Trần Nguyên Đán.

Nguyễn Phi Khanh đã nói về bản thân mình như sau:

Sinh thế na kham tiện trượng phu,

Ly khâm nhẫn đới lệ ngân khô.

Nhật trầm Kiến Lĩnh minh đầu quán,

Tuyết tễ Trường Châu thự giới đồ.

Thiên địa vị dung tư đạo xả.

Giang sơn khẳng ngoại thử thân cô.

Minh thời thảng hiệu hào phân bổ,

Vạn lý ninh từ ngã bộc phu

(Khách lộ)

(Sống trên đời sao chịu được tiếng trượng phu hèn

Vạt áo chia ly đành mang theo ngấn lệ khô

Mặt trời lặn trên đất Kiến Lĩnh, nhá nhem tìm quán trọ

Tuyết ráo đất Trường Châu, tảng sáng dậy dò đường

Trời đất chưa nỡ để đạo này bị xóa bỏ

Non sông cũng chưa bỏ ra rìa tấm thân cô đơn này

Ví chăng có gắng gỏi báo đáp được mảy may nào cho đời thịnh

Đường đi vạn dặm, dù thày tớ mệt nhoài, đâu dám từ nan)(1)

Cái khí khái của Nguyễn Phi Khanh lại khiến người ta liên tưởng đến một câu chuyện về Khổng tử. Luận ngữ chép rằng khi lâm nạn ở đất Khuông, Khổng tử đã bình tĩnh nói với đám học trò rằng: Văn vương ký một, văn bất tại tư hồ? Thiên chi tương táng tư văn dã, hậu tử giả bất đắc dự ư tư văn dã. Thiên chi vị táng tư văn dã, Khuông nhân kỳ như dư hà?(2) (Văn vương đã mất rồi, cái văn ấy chẳng truyền lại nơi ta đây sao? Nếu trời muốn để mất văn ấy thì sau khi Văn vương mất đâu có dự phó cho ta. Trời chưa để mất văn ấy thì người đất Khuông làm gì được ta?). Câu nói đó của Khổng tử đã khởi đầu cho tinh thần tự nhiệm đầy kiêu hãnh và cao cả, đặc trưng đầu tiên phân biệt nhà nho với các loại hình nhân cách khác. Nguyễn Phi Khanh đã tiếp nối tinh thần đó của người sáng lập Nho giáo. Ông đã nhắc đến chuyện trời chưa muốn làm mất đạo này (tư đạo) cũng giống như Khổng tử nói rằng trời chưa muốn làm mất văn này (tư văn). Tinh thần tự gánh vác công việc của thiên hạ, tự nhận mình là kẻ mà trời đã chọn trao cho đại mệnh truyền giữ cái đạo tới dân chúng khiến nhà nho trở thành loại người vừa đáng kính trọng vừa khiến người ta ngại ngần. Nhưng nhà nho tự thấy sứ mệnh của mình là lớn lao mà bất chấp mọi gian khó thử thách. Dĩ nhiên, đây chỉ là mặt lý tưởng của nhà nho. Trên thực tế, cái đa số nhà nho, nhất là ở những giai đoạn muộn hơn của lịch sử, khi Nho giáo dần xuống cấp và nhà nho trở nên thực dụng hơn, không từ nan, không quản khó nhọc, bất chấp mọi hy sinh để đạt tới và giữ cho bằng được lại là những chuyện liên quan đến quyền lợi cá nhân, vinh thân phì gia.

Dù gặp nhiều chuyện bất như ý đến thế nào thì Nguyễn Phi Khanh cũng chưa hề nghi ngờ vào sứ mệnh của bản thân, của tầng lớp Nho sĩ. Ông chưa bao giờ thốt ra những câu đượm ý vị chua chát của người đã từng trải và ở một vị thế khác như Trần Nguyên Đán:

Bạch nhật thăng thiên dị

Trí quân Nghiêu Thuấn nan

(Đề Huyền Thiên quán)

(Ban ngày bay lên trời còn dễ

Giúp vua để vua được như Nghiêu, Thuấn mới khó)(3)

Nhà nho giai đoạn này còn rất tự tin và đầy kiêu hãnh. Đinh Gia Khánh nhận xét rằng: “Nguyễn Phi Khanh trong khi nói lên nỗi buồn của mình đối với hiện trạng xã hội phong kiến vẫn không tỏ ra tuyệt vọng. Trái lại ông đã nói lên ý chí phấn đấu để cải thiện hoàn cảnh. Khí phách của tác giả tiêu biểu cho phí phách của tầng lớp trí thức đương thời. Từ Chu An đến Nguyễn Phi Khanh, các nhà trí thức đã từng nhiều khi tỏ ra bất mãn với hiện thực, nhưng không ai tỏ ra tuyệt vọng về khả năng và vai trò của mình”(4). Đương nhiên, nói chuyện cải tạo hoàn cảnh ở đây có vẻ như hơi hiện đại hóa quá khứ, và thực ra thì nỗi buồn của Nguyễn Phi Khanh cũng không dành nhiều cho hiện thực xã hội phong kiến, nhưng chúng tôi hoàn toàn đồng ý rằng, thế hệ của Nguyễn Phi Khanh chưa bao giờ nghi ngờ về khả năng và vai trò của bản thân (5). Sự tự tin gần như tuyệt đối như thế có lẽ chỉ có được ở nhà nho buổi đầu này, khi Nho giáo chưa thực sự tức vị. Nó sẽ dần mất đi cùng với việc Nho giáo lên nắm địa vị độc tôn. Điều có vẻ như nghịch lý này thực ra lại không khó giải thích: sự tự tin thái quá chỉ có được ở những đối tượng còn rất ngây thơ, chưa bao giờ va chạm thực tế, và tương lai đang còn thuộc về họ.

Chỉ nhật hoàng phong thanh tuyệt vực

Đại công xuất nhậm thuộc ngô nho

(Tống Kinh sư doãn Nguyễn Công vi Hành doanh Chiêu thảo sứ)

(Chả mấy chốc gió nhà vua quét sạch cõi xa

Ra gánh công việc lớn, thuộc về nhà nho ta)(6)

Ưu quốc chính tu ngô bối sự

(Hỉ học sĩ Trần Nhược Hư tự Nghệ An chí)

(Lo việc nước chính là phận sự của bọn chúng ta)(7)

Việc Nguyễn Phi Khanh nói rất nhiều đến cái gọi là sứ mệnh của kẻ sĩ cho thấy nhà nho thời đó thực sự rất bị ám ảnh về việc phải nỗ lực tự chứng minh khả năng cũng như sự hữu ích của mình cho các ông vua và cả xã hội thừa nhận. Có lẽ, đó chính là nhiệm vụ đầu tiên mà họ cần làm trong thời đại Nho giáo đang tìm chỗ đứng như thế.

Nhà nho luôn nhận về mình trách nhiệm với thiên hạ còn vì một lý do, họ làm thế là để đền ơn tri ngộ của nhà vua đối với cá nhân mình. Chính nhờ ơn đó mà thân phận họ được đổi khác, nhưng quan trọng hơn thế là họ đã được biết đến, tài năng của họ đã có người nhận ra và coi trọng. Nguyễn Phi Khanh thực sự có sự hàm ơn sâu nặng như thế đối với Hồ Quý Ly. Cho nên, ông đã viết rất nhiều câu thơ mang cảm xúc đó trong quãng thời gian làm quan ngắn ngủi cho nhà Hồ. Tuy là chuyện cá nhân nhưng cảm xúc này rất tiêu biểu cho nhà nho, nó là một phần không thể thiếu của một kẻ sĩ chân chính:

Thánh thế thảng hoài di khí vật

Nguyện thi tài tảo đáo nông tang

(Hạ Trung thư thị lang)

(Đời thịnh trị, chúa có đoái trông đến vật bị vứt bỏ còn sót lại

Thì nguyện đem tài mọn văn đến tận thôn xóm)(8)

Chuyện đền ơn người đã biết đến mình là đặc tính không chỉ của riêng nhà nho. Ở Hịch tướng sĩ, Trần Quốc Tuấn cũng từng nói đến chuyện này. Đó cũng là một đặc tính quan trọng của hình tượng người võ tướng nhà Trần. Điểm xuất phát của nó là từ thời Xuân Thu, khi chế độ phân phong ở Trung Quốc tan rã, đám quý tộc bị mất địa vị rơi xuống tầng lớp dân thường. Với mong muốn trở lại với thân phận quý tộc, họ đã tìm mọi cách để thuyết phục những kẻ cầm quyền bằng sở trường của mình. Từ đó đã xuất hiện truyền thống dưỡng sĩ và trọng kẻ sĩ trong lịch sử Trung Quốc. Những kẻ được nuôi dưỡng sẽ cảm ơn tri ngộ này mà đem hết tài năng, sức lực cũng như tính mạng mình ra để báo đền. Trong Hịch tướng sĩ, Trần Quốc Tuấn đã đem hai luận điểm ra để thuyết phục tướng sĩ là nỗi nhục của đất nước và sự khổ tâm của người chủ. Đối với các tì tướng của mình, Trần Quốc Tuấn không chỉ đòi hỏi sự trung thành với vua, với nước mà cả sự đền ơn đối với chủ, người chủ đã “không có mặc thì ta cho áo, không có ăn thì ta cho cơm. Quan thấp thì ta thăng chức, lộc ít thì ta cấp lương… Lâm trận mạc thì cùng nhau sống chết, được nhàn hạ thì cùng nhau vui cười”(9). Chỗ dựa tinh thần của bài hịch ở nghĩa cả của võ sĩ đối với chủ nhiều hơn là trách nhiệm của bề tôi đối với vua, với nước. Nhà nho khác võ tướng ở chỗ, họ không có bất kỳ người chủ nào ngoài vị hoàng đế tối cao, và ơn tri ngộ họ cũng thường chỉ dành cho một đối tượng duy nhất đó. Nhưng trong giai đoạn giao thời cuối nhà Trần, vẫn có những điểm ngoại lệ xảy ra. Trần Quốc Tuấn chính là người đã nuôi dưỡng nhiều nho sĩ trong nhà, trong đó có nhà nho nổi tiếng là Trương Hán Siêu. Nguyễn Phi Khanh lại ở một trường hợp khác, ông mang ơn tri ngộ sâu đậm của nhạc phụ là Trần Nguyên Đán:

Đông phong khoái đạp triều thiên lộ

Hy ký thâm hoài đáp sở tri

(Tạ Băng Hồ tướng công tứ mã)

(Đạp bước nhanh trên đường chầu trời trong gió xuân

Thấm sâu trong lòng sự mong mỏi đền ơn tri ngộ)(10)

Sau này, sang đến thời kỳ Nho giáo đã thực sự bắt rễ trong lòng xã hội, hiện tượng này sẽ không thể tồn tại được nữa.

Thế nhưng, rõ ràng là nhà nho rất khác tầng lớp quý tộc ở tính quy định hệ giá trị. Nhà nho sẽ không bao giờ đem chuyện lợi lộc ra để làm động lực của hành động như kiểu Hịch tướng sĩ, trái lại, họ chỉ luôn nói về chuyện đạo lý. Họ coi gánh vác thiên hạ là thiên chức của bản thân. Đây là một đặc điểm khiến nhà nho có vẻ cao khiết khác người, nhưng trên thực tế, chính vì thế mà càng trở nên không tưởng.

Cái mà nhà nho thường đem ra để khoe chính là đạo đức. Đạo đức cũng là phương tiện thứ nhất mà nhà nho dùng để hành đạo, cũng có nghĩa là để thi hành mọi công việc giúp nhà vua cai trị thiên hạ. Nguyễn Phi Khanh cũng có nhắc đến chuyện này:

Dĩ tương phong thái nghi triều trứ

Hảo bả tinh trung động tử thần

Lưu thủ thanh danh quang vạn cổ

Thế gian kỳ lộ tổng yên trần

(Hạ Tống, Lê, Đỗ tam ngự sử)

(Đã đem phong thái làm khuôn mẫu ở triều đình

Hãy mang lòng trung khích động điện tía

Gắng lưu lại tiếng tăm soi sáng muôn thuở

Những con đường rẽ trên đời này thảy đều khói bụi)(11)

Nhưng chuyện đạo đức với nhà nho TK XIV chưa thể là điều quá quan trọng, bởi họ phải chứng minh cho xã hội thấy khả năng giải quyết công việc thực tế. Chính vì thế, hình tượng nhà nho trong thơ Nguyễn Phi Khanh cũng chưa được đề cập nhiều ở khía cạnh này.

2. Hình tượng Trần Nguyên Đán

Trần Nguyên Đán là một hình tượng khá đặc biệt trong tác phẩm của Nguyễn Phi Khanh. Trần Nguyên Đán không phải là nhà nho, nhưng trong thơ văn Nguyễn Phi Khanh, nhà quý tộc này lại tồn tại trong hình tượng một nhà nho chân chính với tất cả mọi đặc điểm, tư cách, hành vi, suy tư, ứng xử… mang màu sắc Nho giáo. Trong Thanh Hư động ký, điểm nổi bật nhất ở hình tượng Trần Nguyên Đán chính là hành động theo đạo: “Người một mình gánh vác công việc của những ngày nước nhà điêu đứng vậy… Nếu không phải Người đã hành động theo lẽ trời thì có thể làm như thế được chăng?”, “Nếu không phải Người đã biết tìm thú yên vui theo lẽ trời, lại có thể như thế được chăng?”(12). “Ôi! Thân phận một kẻ đại thần, khi tiến, khi lui, đều có quan hệ với vận mệnh của nước nhà, cho nên người quân tử vẫn ôm mối lo suốt đời, nào phải như kẻ bỉ phu thờ vua, đã lo được lại lo mất, khi được thì a dua, nịnh hót, chẳng việc gì là chẳng làm; khi mất thì hất hủi bỏ đi, trong lòng hậm hực”(13).

Trong thơ, hình tượng Trần Nguyên Đán cũng không vượt ra ngoài nguyên tắc đó:

Ngu đình dĩ tác lai nghi phượng

Phó dã liêu hoàn tế cự châu

(Đã làm chim phượng đến múa ở sân nhà Ngu

Rồi lại về Nội Phó chèo thuyền lớn qua sông)(14)

Hàn tùng vãn cúc Uyên Minh kính

Độc thụ cô thôn Tử Mỹ đường

(Phụng canh Băng Hồ tướng công ký tặng Đỗ Trung Cao vận)

(Tùng già cúc muộn, vườn cũ Uyên Minh

Xóm lẻ cây đơn, căn nhà Tử Mỹ)(15)

Đương nhiên, Nguyễn Phi Khanh có cơ sở hiện thực để làm công việc đổi vai đó. Chúng ta đều biết rằng, Trần Nguyên Đán là một nhà quý tộc đã bị nho hóa với mức độ sâu sắc. Trong con người Trần Nguyên Đán tồn tại cả hai mặt: quý tộc và nho sĩ. Nhưng vấn đề là ở chỗ, Nguyễn Phi Khanh hoàn toàn không nhắc đến vai trò quý tộc của Trần Nguyên Đán. Có nghĩa là, với Nguyễn Phi Khanh, Trần Nguyên Đán đã được Nho giáo hóa tuyệt đối. Ông nhìn Trần Nguyên Đán bằng con mắt của nhà nho, và giải thích mọi hiện tượng bằng hệ tiêu chí nho gia. Chính vì thế, trong thơ văn Nguyễn Phi Khanh, hình tượng Trần Nguyên Đán là hình tượng một nhà nho mẫu mực. Sau này, Nguyễn Trãi cũng sẽ nhìn về Trần Nguyên Đán theo cách đó. Cảm quan trên rất tiêu biểu cho cách thức ứng xử với thế giới của nhà nho, họ không bao giờ nhìn sự vật như nó vốn có, mà luôn áp đặt lên đó chủ quan của mình, đem lại cho nó một đời sống hoàn toàn khác. Điều này có truyền thống từ người sáng lập Nho giáo. Kinh Thi là bộ sách tập hợp những bài ca dao cổ của Trung Quốc, nhưng Khổng tử lại thấy trong đó những biểu hiện cho giáo lý của ông: “Thi khả dĩ hưng, khả dĩ quán, khả dĩ quần, khả dĩ oán, nhĩ chi sự phụ, viễn chi sự quân, đa thức ư điểu thú thảo mộc chi danh”(16) (Xem thi có thể phấn khởi được ý chí, xem xét được việc hay dở, hòa hợp được với mọi người, bày tỏ được nỗi sầu oán, gần thì học việc thờ cha, xa thì học việc thờ vua, lại biết được nhiều tên chim, muông, cỏ, cây). Các nhà nho đời sau cũng theo cách đó mà hiểu Kinh Thi: “Trong bài ca Quyển nhĩ có suy nghĩ của hoàng hậu. Nàng phải là chỗ dựa cho chồng, giúp chồng tuyển chọn những người khôn ngoan, kiểm tra những người có chức vụ, nhận ra sự tận tụy và việc làm của những thần dân”(17).

Nói chung, hình tượng Trần Nguyên Đán trong thơ Nguyễn Phi Khanh cũng không có gì khác biệt lắm so với khi ông viết về những nhà nho như Hồ Tông Thốc, Vũ Thích Chi, Lê Dung Trai…, có khác chăng chỉ là tình cảm đặc biệt sâu nặng ông dành cho nhạc phụ – ân nhân của mình, người mà Nguyễn Phi Khanh phải hàm ơn tri ngộ, dù rằng ông không công nhận điều đó:

Chúc tụng khởi tư môn hạ sĩ,

Quyền quyền chỉ vị ái tư dân

(Nguyên nhật thướng Băng Hồ tướng công)

(Chúc tụng đây há phải vì tình riêng của kẻ sĩ dưới trướng,

Mà chỉ vì tấm lòng thắm thiết yêu thương dân)(18)

Như thế, có thể thấy rằng hình tượng Trần Nguyên Đán trong thơ Nguyễn Phi Khanh là hình tượng một nhà nho đích thực. Chính vì thế chúng tôi đã không đặt tiểu mục này là hình tượng quý tộc bị Nho hóa dù rằng cái tên này khi mới nghe có vẻ cùng tiêu chí hơn. Mặt khác, vì trên thực tế, Trần Nguyên Đán không phải là một nhà nho nên chúng tôi cũng không xếp chung hình tượng này vào mục hình tượng nhà nho.

3. Hình tượng vị thánh quân trong mộng tưởng

Trong thơ văn Nguyễn Phi Khanh, hình tượng vị thánh quân Nho giáo bắt đầu hiện lên, dù còn chưa thật rõ nét nhưng đã định hình những điểm đặc thù. Đó là những ông vua chịu mệnh trời đem văn xuống giáo hóa thiên hạ, đem ân đức gieo rắc bốn cõi. Chính vì thế mà đức trở thành phẩm chất thứ nhất của hoàng đế. Ông ta dùng đức độ chứ không phải tài năng để cai trị thiên hạ:

Viêm viêm cửu thổ chính tiêu tầm

Nhất vũ hoàng thiên phổ trạch thâm

Thỉnh tội quốc tương hành thịnh đảo

Sơ hòa dân dĩ thiếp hoan tâm

Ngọa long tự thị nhân gian vật

Tiếu tượng năng vi tuế hạn lâm

Tỉ thị bộc uông hà dụng giả

Chí thành cảm triệu cổ do câm (kim)

(Giáp tí hạ hạn, hữu sắc chư lộ đảo vũ, vị đảo nhi tiên vũ)

(Rừng rực đất đai khắp nước đang lúc khô cháy

Một trận mưa của trời gieo khắp ơn sâu

Quốc gia sắp làm lễ thỉnh tội để cầu mưa trọng thể

Trời mới đem lại khí hòa, dân đã thấm khắp niềm vui

Rồng nằm vốn là con vật của nhân gian

Tiếu tượng của trời có thể hẹn mưa dầm trong năm hạn

Chẳng phải dùng làm gì cái lễ đưa một thân hình gầy còm ra phơi ngoài chợ

Xưa nay chỉ có lòng chí thành là cảm đến trời)(19)

Đức thánh quân này vì chịu mệnh trời cai trị thiên hạ nên có thể giao tiếp được với đấng tối cao, có thể chuyển tải ý của dân đến trời bằng sự chí thành, thế nên có thể cầu mưa giữa năm hạn.

Hoàng đế cũng dùng đức độ của mình để thu hút và sử dụng người hiền tài cho công việc của nước nhà:

Ngưỡng duy: thánh trí chi năng, nhi phi chúng nhân chi sở khả nghị dã

Thiết hựu: phản phúc thiên tâm, trừu dịch nhân sị (sự)

(Diệp mã nhi phú)

(Kính xem: tài năng thánh trí, khó kẻ luận bàn.

Lại trộm nghĩ: suy xét lòng trời, dõi tìm nhân sự)(20)

Tự quí vi lao hà bổ báo

Nguyện dương hoàng hóa đảm thiên kiêu

(Phụng chiếu Trường An đạo trung tác)

(Tự thẹn chút đỉnh khó nhọc này, nào đã báo đáp được gì

Nguyện nêu đức hóa của nhà vua, trấn áp giặc trời)(21)

Hình tượng hoàng đế trong thơ Nguyễn Phi Khanh đã khác rất xa so với văn chương của võ tướng quý tộc nhà Trần TK XIII. Không còn đâu bóng dáng những vị vua vừa am hiểu lý lẽ sâu xa của thiền học, lại vừa có võ công hiển hách.

Trong hình tượng vị thánh quân này có thấp thoáng hình bóng của Hồ Quý Ly. Nguyễn Phi Khanh có nhiều lý do để đặt niềm tin vào Hồ Quý Ly, không chỉ bởi lý do ông đã được trọng dụng dưới triều Hồ, mà quan trọng hơn là vì Hồ Quý Ly thực sự là một ông vua đã rất nỗ lực để đưa đất nước đến với một xã hội sùng Nho, đã ít nhiều mang bóng dáng của một một vị hoàng đế Nho giáo. Thế nhưng, dù sao vị thánh quân này của Nguyễn Phi Khanh lại nằm trong mộng tưởng và mơ ước nhiều hơn là hiện thực. Bởi thực tế là Hồ Quý Ly đã chưa làm được nhiều việc như mong muốn. Chính vì thế mà trong tác phẩm của Nguyễn Phi Khanh, hình tượng vị thánh chúa này còn khá mờ nhạt.

Sau này, đến thời Nguyễn Trãi, hình tượng vị thánh quân Nho giáo này sẽ kết hợp với hình tượng người anh hùng cứu nước để trở thành hình tượng thánh nhân nho gia với nguyên mẫu là Lê Lợi – một hình tượng rất quan trọng của văn học Việt Nam giai đoạn đầu TK XV. Và hình tượng này sẽ rõ nét, có màu sắc hơn hẳn trong văn chương TK XIV.

Có thể thấy tính chất giao thời của hiện tượng Nguyễn Phi Khanh khá rõ qua thơ văn của ông. Đến Nguyễn Phi Khanh, đã có thể nói đến sự định hình của loại hình văn chương nhà nho. Nguyễn Phi Khanh đã là một nhịp cầu dang dở cho nhiều truyền thống trong văn chương nhà nho ở Việt Nam. Thơ văn Nguyễn Phi Khanh đã định hình những đặc trưng cơ bản nhất của văn chương nhà nho. Nhưng ở đó vẫn mang những nét khu biệt được quy định bởi thời đại. Chúng tôi muốn nói đến hồi vọng của hào khí Đông A cũng như văn chương nhà Trần vẫn còn ảnh hưởng đến tác phẩm của Nguyễn Phi Khanh. Đặc biệt, tính chất chưa tiêu biểu của lớp nho sĩ thời đại này cùng chất lãng mạn và những bi kịch mà họ phải gánh chịu đã trở thành giọng điệu riêng của thơ văn Nguyễn Phi Khanh. Hình tượng con người quan trọng nhất trong tác phẩm Nguyễn Phi Khanh là hình tượng nhà nho đang tự khẳng định. Nhà nho này mang bóng dáng, suy nghĩ, số phận cũng như những ước mơ hoài bão của tác giả, chính vì thế mà nó rất sống động và sâu sắc. Bên cạnh đó còn có thể nhắc đến hình tượng Trần Nguyên Đán, một nhà quý tộc bị Nho giáo hóa ngoài cuộc đời nhưng khi vào tác phẩm Nguyễn Phi Khanh chỉ còn lại phương diện nhà Nho mà mất hẳn phương diện quý tộc. Một loại hình tượng nữa cũng xuất hiện nhiều lần trong sáng tác Nguyễn Phi Khanh là hình tượng vị thánh quân trong mộng tưởng, nhưng là một loại hình tượng vẫn còn rất mờ nhạt và đơn điệu. Có thể thấy rằng, sáng tác Nguyễn Phi Khanh đích thực là thứ văn chương điêu luyện của một loại hình tác giả rất chuyên nghiệp – loại hình tác giả nhà nho. Ở phương diện đó, thành tựu Nguyễn Phi Khanh đạt được là ở chỗ đã góp phần tạo dựng loại hình văn chương Nho giáo ở Việt Nam, đưa nó đến chỗ thành thục. Nguyễn Trãi sau này sẽ vẫn tiếp tục con đường dang dở đó, nhưng ở một thời đại khác với những đòi hỏi và năng lực đáp ứng khác. Thế nhưng, ở Nguyễn Trãi cũng đã hé lộ một phần những ngả đường mà văn học Việt Nam sẽ đi tới về nhiều phương diện. Thành tựu của các thời đại sau, TK XVII, XVIII, XIX, sẽ không thể giống TK XIV, nó lại phải là nỗ lực thoát ra khỏi vòng vây của Nho giáo đã dần trở nên quá chật hẹp với khát vọng cũng như tình cảm của con người.

 

Nguồn : Tạp chí VHNT số 335, tháng 5-2012

Tác giả : Đỗ Thu Hiền

Đánh giá post

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *