Lễ hội đền Hùng – điểm hội tụ văn hóa tâm linh của người dân đất Việt


Hàng ngàn năm nay, thờ cúng Vua Hùng đã trở thành truyền thống lâu đời của dân tộc Việt Nam. Truyền thống ấy là ngọn nguồn sức mạnh tinh thần của cả dân tộc để vượt lên mọi gian lao thử thách trong suốt tiến trình dựng nước và giữ nước. Đền Hùng thực sự trở thành biểu tượng của tinh thần đại đoàn kết, điểm hội tụ văn hóa tâm linh của mọi người dân đất Việt. Giỗ Tổ Hùng Vương – Lễ hội Đền Hùng ngày càng trở nên sâu đậm trong đời sống văn hóa tinh thần, là niềm tự hào kiêu hãnh của một dân tộc giàu truyền thống văn hiến luôn trân trọng quá khứ, biết ơn các thế hệ tiền nhân đã đổ bao mồ hôi, xương máu để giữ gìn và khẳng định chủ quyền của đất nước, dân tộc.

Phú Thọ, vùng đất cội nguồn, còn bảo lưu nhiều giá trị văn hóa cổ xưa mà tổ tiên ta đã dày công xây dựng. Cùng với các di tích đình, đền có thờ các nhân vật lịch sử hoặc vợ con tướng lĩnh của Hùng Vương là những hình thức sinh hoạt văn nghệ dân gian cực kỳ phong phú, đa dạng: các tục lệ, kiêng, hèm, diễn xướng, lễ hội, sự tích, các truyền thuyết, thần thoại, cổ tích, các loại hình dân ca, dân vũ, sân khấu dân gian… Trải qua nhiều biến động của thời gian, những giá trị ấy vẫn được nuôi dưỡng, bảo lưu trong mạch nguồn lễ hội truyền thống, trong các sinh hoạt dân gian nhất là những vùng xung quanh núi Hùng, thành phố Việt Trì, huyện Lâm Thao, Tam Nông, Phù Ninh, Thanh Thuỷ. Có thể nói, sự xuất hiện của các giá trị văn hóa phi vật thể nêu trên khá đậm đặc, nó phản ánh rất nhiều lĩnh vực của quá trình dựng nước và giữ nước từ thời Hùng Vương thông qua các lễ hội dân gian truyền thống. Hội hè ở nhiều làng quê là những cuộc tế lễ, trò diễn, diễn xướng dân gian liên quan đến chủ đề dựng nước song hành với lễ thức và phong tục gắn với đời sống của người Việt cổ: nghi lễ cầu mùa, cầu phồn thực nông nghiệp, cầu “đông đàn, dài lũ” con người sinh sôi, mùa màng tươi tốt, những trò diễn đặc sắc “Trò Trám”, múa  “Tùng dí”, trò trình nghề “Bách nghệ khôi hài”… Tất cả đều phản ánh một cách sinh động dấu ấn của thời kỳ con người khai phá, chinh phục thiên nhiên để cải thiện cuộc sống cho chính mình từ sơ khai săn bắt, hái lượm đến trồng trọt, chăn nuôi, tích luỹ của cải, mơ ước một xã hội phát triển “Nhân khang, vật thịnh”. Điều này đã được gửi gắm, phản ánh thông qua các dịp tế lễ hội hè, đình đám, các làn điệu dân ca, dân nhạc. Đó là nhìn tổng quan xu thế phát triển, còn chi tiết hơn, chúng tôi xin đi vào phân tích một số giá trị đặc sắc từ các hội làng xung quanh khu vực núi Hùng và một số làng xã lân cận ở Việt Trì, Lâm Thao, Phù Ninh tỉnh Phú Thọ… để lý giải vì sao Lễ hội Đền Hùng lại có sức cuốn hút mạnh mẽ và ngày càng phát triển sâu rộng.

Trước hết nói về dân ca. Ở Phú Thọ độc đáo và đặc sắc nhất phải kể đến hát Xoan. Đây là dân ca nghi lễ, phong tục gắn với hội mùa, là lối hát thờ thần (Thành hoàng làng). Xung quanh Đền Hùng có nhiều làng cổ với các phường Xoan gốc như : Phù Đức, Kim Đái, Thét (xã Kim Đức), An Thái (Phượng Lâu). Hát Xoan có đủ các tục, hèm thời cổ đại, những lễ tiết đúng phong tục kỳ yên, kỳ phúc của làng quê như các buổi khai tiệc, khai xuân, cầu đinh, hạ điền (Lễ hội xuống đồng), cầu nước. Hội Xoan có dân ca giao duyên đối đáp, xin huê đố chữ, tung đúm lại có cả múa hát trình diễn sân khấu “Cài hoa, mó cá”. Ca từ trong hát Xoan là ca từ chọn lọc, hấp dẫn, đạt đến nghệ thuật, nó thể hiện sự khéo léo tài tình kết hợp 2 dòng bác học và dân gian trong sử dụng ngôn từ. Mỗi tiết mục trong hội Xoan có thể coi như là tấm gương phản ánh những nét sinh hoạt cộng đồng của xã hội nông, ngư nghiệp gắn với tình cảm nồng hậu giữa con người với con người, con người với thiên nhiên, thậm chí nhiều chi tiết lịch sử cũng được kể ở đây. Qua dấu tích văn hóa dân gian, ta hiểu thêm về những khía cạnh đẹp đẽ, tế nhị của người dân lao động đất Tổ, đó là niềm say mê trong lao động dù có vất vả gian nan vẫn gửi lòng yêu thương và không quên vun đắp cho cuộc sống ngày mai tốt đẹp hơn, hoàn thiện hơn. Vẻ đẹp trong lễ hội cổ truyền các làng xã xung quanh núi Hùng được thể hiện qua nghi lễ nông nghiệp. Tục thờ lúa, rước lúa thần trong lễ hội Trò Trám – Tứ xã là một ví dụ điển hình bày tỏ sự sùng kính hạt lúa của cư dân trồng lúa nước thời Hùng Vương cùng với ước mong no đủ, yên vui của đời sống cộng đồng. Người Việt cổ gọi lúa là Mẹ; gọi vía lúa, rước lúa, rước mạ, cầu mưa cho lúa tốt. Tương truyền, trên đỉnh núi Nghĩa Lĩnh (khu vực Đền Thượng) là nơi Vua Hùng tế trời đất, gọi vía lúa. Trước năm 1945, trong hậu cung Đền Thượng có thờ hạt lúa thần được làm từ đá to bằng chiếc thuyền. Lễ hội Trò Trám có rước hạt lúa thần. Người ta buộc những bó lúa vào cây mía to rồi đặt lên kiệu rước vòng quanh cánh đồng làng với mong ước cầu cho lúa quanh năm tươi tốt, mùa màng bội thu. Lễ hạ điền của làng Cổ Tích, xã Hy Cương tổ chức vào ngày 25 tháng 5 âm lịch. Lễ vật có xôi, gà, ba bó mạ. Chúa đồng là người đàn ông tốt lão (có sức khoẻ, gia đình không có tang chế) được dân làng chọn cử là người thay mặt cộng đồng thực hiện nghi lễ nông nghiệp. Chúa đồng sau khi làm lễ, sẽ cấy những cây mạ đầu tiên trên ruộng làng. Sau khi cấy xong, dân làng lấy bùn đất ném vào người chúa đồng cho đến khi ướt hết với ngụ ý mong mưa thuận, gió hòa, mùa màng tươi tốt. Tại lễ hội cầu mùa ở xã Thanh Đình, Việt Trì có nghi lễ rước ông Khưu, bà Khưu với những tục, hèm độc đáo. Trong lễ rước, kiệu của ông Khưu đi trước, trên kiệu có để cỏ re (một loại cỏ giống như lá lúa có buộc lẫn với những bông lúa tẻ, lúa nếp) cùng mâm ngũ cốc và bánh chưng tày dài bằng cổ tay. Một người vác cờ hồng có thêu hình trâu mẹ, nghé con, dước cờ buộc một cái nơm úp cá, trong nơm có treo một cái giỏ, tốp người khác cầm hình đầu trâu, đầu bò vừa đi vừa múa hát làm vui. Khi cỗ kiệu đi đến gò Tế Thánh (nơi có một cái oa hình thuyền), ông Khưu xuống làm hèm, cầm chiếc bánh chưng tày dí vào oa 3 lần, sau đó đoàn rước trở về đình làng. Ông Khưu, bà Khưu ngồi trên cái sàn làm bằng gỗ cùng một ông thầy cúng tay cầm một chiếc trống khẩu. Cứ sau một hồi 3 tiếng trống, ông Khưu lại khấn: Cầu trời cho nhân khang, vật thịnh, mưa thuận gió hòa, cho cây xanh lá, để dân làng ta có nơm úp cá, có rá đựng xôi… Sau lời khấn, ông ngẩng mặt lên trời vái 3 vái rồi tung mâm lúa, mâm ngũ cốc (ngô, đỗ, đậu, lạc, vừng); bà Khưu tung chiếc bánh chưng tày xuống cho dân làng cướp lấy khước, lấy may. Người ta tin rằng, ai cướp được bánh chưng tày sẽ có con, ai cướp được lúa, ngô, đậu, đỗ thì mùa màng tốt tươi, thóc lúa đầy bồ, làm ăn phát đạt.

Giỗ Tổ Hùng Vương – Nét đẹp văn hóa nuôi dưỡng tâm hồn Việt

Các trò diễn dân gian trong nhiều lễ hội làng thể hiện qua trò diễn trình nghề hay còn gọi là “trò bách nghệ” – một loại nghệ thuật tín ngưỡng, trò diễn mang tính lễ nghi phong tục. Thời gian tổ chức vào dịp đầu xuân với mục đích mừng xuân cầu phúc. Có thể nói, hệ thống trò diễn hội làng ở Phú Thọ về phong tục thời Hùng Vương diễn ra xung quanh vị thánh được nhân dân tôn thờ ở nhiều nơi, đó là Tản Viên gắn với chủ đề hôn nhân. Tích trò Tản Viên đón vợ – Ngọc Hoa công chúa – là tích trò liên hoàn của nhiều làng xã ở Phú Thọ, nhất là khu vực xung quanh núi Hùng, dọc bờ sông Đà và một số xã bên kia sông Đà thuộc tỉnh Hà Tây (cũ). Đặc biệt, lễ hội làng He (lễ hội Rước chúa gái được giới nghiên cứu cho là tiền thân của lễ hội Đền Hùng) của thị trấn Hùng Sơn, huyện Lâm Thao kéo dài từ 30 tháng chạp đến mồng 8 tháng giêng âm lịch có nhiều tích trò phong phú, độc đáo. Tối ngày 30, gần Giao thừa, ông từ làm lễ ở đình đến cây hương đầu làng tay cầm con gà trống vái 3 vái. Nghi thức ấy tượng trưng cho việc Sơn Tinh giả làm tiếng gà gáy khiến quân lính của Vua Hùng tưởng trời sáng mở cửa thành cho Sơn Tinh đem lễ vật thách cưới vào dâng lên Vua Hùng để đón Ngọc Hoa công chúa. Sau lễ này, ông từ vừa đi vừa hú, dân làng nổi chiêng trống và hú theo. Nghi thức trong lễ rước tiếng hú tượng trưng cho việc Sơn Tinh sang đón Ngọc Hoa thì Thuỷ Tinh đến, hai bên giao tranh quyết liệt, trong lúc hai bên giằng co, Ngọc Hoa cất tiếng hú tìm Sơn Tinh. Trong 3 ngày Tết, dân làng vui chơi đón xuân (ở Hy Cương tích đón Vua về ăn Tết cũng xuất phát từ lễ hội này). Ngày mồng 4 Tết diễn trò: “Săn lợn, chạy địch” diễn lại cảnh săn bắt tập thể thời Hùng Vương. Ngày mồng 5 Tết tổ chức lễ rước voi, ngựa tượng trưng cho việc Sơn Tinh mang gia binh, gia tướng đi đón Ngọc Hoa. Mồng 6 Tết, diễn trò múa “Tùng dí”, mỗi làng chọn ba chàng trai khoẻ mạnh, nhà không có tang chế, mỗi người cầm một đòn gánh được sơn son thếp vàng, mỗi đầu buộc 2 nắm lúa, 2 nắm xôi gói trong lá dong. Ba chàng trai chạy vòng quanh sân đình vừa chạy vừa reo hò: “Hú tùng dí, hú tùng dí” dân làng đứng ở vòng ngoài cũng hú theo. Tiếp đó, 3 người vào trong sân đình đứng trước ban thờ thánh vừa múa đòn gánh theo nhịp chiêng trống vừa reo: “Hú tùng dí, hú tùng dí” 3 lần thì ông chủ trò lấy nắm xôi, nắm lúa tung cho người dân cướp lấy may để mùa màng vụ tới tóc lúa đề đa. Ngày mồng 8, là lễ rước chúa Gái Ngọc Hoa về núi Tản. Vì thương cha, nhớ mẹ, Ngọc Hoa dùng dằng không muốn đi nên dân làng tổ chức trò “bách nghệ khôi hài” để mua vui, sau đó Ngọc Hoa tiếp tục lên đường về nhà chồng. Ở làng Vân Luông, cũng xung quanh chủ đề hôn nhân của Sơn Tinh, có các trò diễn trong lễ hội ném chài tổ chức vào mồng 3 Tết. Một người đàn ông mặc áo the thắt lưng xanh tay cầm cái lệnh cùng với một người cầm thuyền giấy to, một người gánh cỏ đi từ cổng đình đến ngòi nước trước cửa đình làng. Dân làng đua nhau ném đá, đất vào người đàn ông, sau khi dứt một hồi trống thì thôi ném. Chiếc thuyền giấy được thả xuống nước, gánh cỏ được đặt trên bờ, dân làng quay về đình. Trò diễn này mô tả việc dân làng ném đất tiễn Sơn Tinh và vợ về núi Tản theo phong tục cổ. Chiếc thuyền giấy là phương tiện qua sông, gánh cỏ dành cho ngựa của Sơn Tinh.

Có thể nói, những giá trị văn hóa phi vật thể được thể hiện trong các lễ hội cho chúng ta một thông điệp: sự ghi nhớ công ơn của người dân với công lao dựng nước của các Vua Hùng và các thế hệ tiền nhân đi trước. Những giá trị ấy đã trở nên trường tồn trong đời sống văn hóa tâm linh từ xa xưa đến tận ngày nay. Điều này lý giải sự hấp dẫn của Lễ hội Đền Hùng bắt nguồn từ sự kết tinh sâu đậm những nét đẹp của hội làng xa xưa, nó luôn vận động và ngày càng thu hút vào mình các giá trị văn hóa của nhiều vùng miền để trở thành nơi hội tụ văn hóa tâm linh của mọi người dân đất Việt khi hướng về cội nguồn dân tộc.

Giỗ Tổ Hùng Vương và Lễ hội Đền Hùng là sự phát triển cao có tính chất trìu tượng hóa ý thức về cội nguồn, bắt rễ sâu xa từ tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ông bà trong gia đình, gia tộc và làng xã. Trong tâm thức của người dân Việt Nam từ ngàn đời nay, Vua Hùng là thủy tổ dựng nước, là tổ tiên của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Dựa vào uy linh của Thánh, ý thức cộng đồng đã được hình thành phát triển từ trong gia đình đến dòng họ, từ xóm giềng rồi mở rộng ra cả nước theo quan hệ huyết thống: dòng máu Lạc Hồng, con cháu Lạc Hồng. Trong tâm khảm của mọi người, “đồng bào” nghĩa là sinh ra trong cùng một bọc, đều là anh em. Với người Việt Nam, đồng bào đã trở thành khái niệm mang tính đại diện cho tinh thần cố kết cộng đồng, có sức mạnh to lớn trong việc hội tụ, khơi dậy, củng cố ý thức quốc gia, dân tộc. Tín ngưỡng và Lễ hội Đền Hùng trong quá trình hình thành, tồn tại đã góp phần quan trọng trong việc tạo nên những giá trị đạo đức truyền thống, lòng yêu nước, tự hào dân tộc, khơi dậy tinh thần đại đoàn kết toàn dân của người Việt Nam.

 Hai năm trở lại đây, do ảnh hưởng của đại dịch Covid 19, Lễ hội Đền Hùng chỉ tổ chức phần lễ, không tổ chức phần hội… song trong sâu thẳm tâm khảm của mỗi người dân Việt Nam, Đền Hùng – Giỗ Tổ Hùng Vương luôn là biểu tượng cao đẹp, điểm kết nối quan trọng, không thể thiếu trong mối quan hệ gia đình – làng – nước; đây là nơi cội nguồn linh thiêng của dân tộc. Cho dù không đến được Đền Hùng nhưng mỗi người đều có thể thắp trong tim mình nén tâm hương để tri ân công lao dựng nước, giữ nước của các Vua Hùng và các bậc tiền nhân.

Tác giả: Trần Văn Quang

Nguồn: Tạp chí VHNT số 456, tháng 3-2021

 

Đánh giá post

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *