Trong đời sống âm nhạc, quốc gia nào có nền công nghiệp hiện đại thường có một nền tảng để phát triển ngành kèn – gõ nói chung và kèn đồng nói riêng. Và, cũng chỉ ở đó mới sản xuất được các loại kèn có chất lượng cao, không những phục vụ cho hàng vạn người trong nước chơi loại nhạc cụ này, mà còn xuất khẩu ra thế giới. Ngành kèn đồng thường được chia ra những lĩnh vực hoạt động khác nhau, đó là chơi trong dàn nhạc giao hưởng mang tính hàn lâm, dàn kèn quân đội phục vụ các nghi lễ quốc gia, dàn nhạc jazz, big band và các dàn nhạc nhẹ nhằm mục đích giải trí cho người yêu âm nhạc.
Kèn đồng (brass instruments)
Nhạc cụ đồng “là những nhạc cụ được chế tác bằng đồng hoặc một số kim loại khác. Luồng hơi do cơ quan hô hấp phát ra đưa vào thân kèn thông qua cặp môi của con người tác động tới búp kèn phát ra âm thanh” (1). Các nhạc cụ đồng (không tính họ hàng kèn đồng sử dụng trong quân nhạc) bao gồm: cornet, trumpet, flugelhorn, horn, trombone, bariton, euphonium, tuba. Những nhạc cụ này được chế tác chủ yếu bằng đồng hoặc các loại hợp kim khác, tuy nhiên, cũng có nhạc cụ hơi thuộc bộ gỗ, nhưng lại được chế tác bằng đồng hoặc bằng hợp kim như saxophone, flute… Đặc điểm chung của các loại nhạc cụ họ đồng là đều sử dụng búp kèn (embouchure) và hệ thống phím bấm nhằm thay đổi độ dài đường ống của kèn.
Theo Bogar Istvan, nhà nghiên cứu lý luận Hungary, thì: “Các nhạc cụ kèn hơi là loại nhạc cụ cổ nhất của loài người. Con người thời kỳ nguyên thủy đã sử dụng xương, sừng làm những dụng cụ phát ra âm thanh. Các “nhạc cụ” này có thể đã được sử dụng trong quá trình đi săn. Ngoài ra, các loại nhạc cụ kèn hơi còn được dùng trong nhiều nghi lễ tôn giáo thời nguyên thủy” (2). Người ta đã thấy xuất hiện loại kèn sofar trong cộng đồng người Do Thái và dạng kèn gần giống âm thanh của kèn trombone ở Ai Cập. Những di tích văn hóa cổ, chẳng hạn các bức tranh, đã miêu tả phần nào sự hiện diện của các loại kèn cổ này.
Trong thời kỳ đồ đồng, có thể tìm thấy sự hiện diện của lur – một loại nhạc cụ được chế tác bằng kim loại ở vùng đất của Đan Mạch. Cùng chủng loại với nó, còn thấy sự xuất hiện của loại nhạc cụ hơi giống như tù và ở vùng Normandi, kèn horn (cor) ở vùng Scandinavia hoặc kèn loure.
Thời kỳ trung cổ, kèn đồng là nhạc cụ không thể thiếu được trong các hoạt động đi săn và trong dàn nhạc của quân đội. Kèn đồng được du nhập vào âm nhạc nhà thờ như một hình thức để tăng cường cho các bè vocalis. Ở thời kỳ hình thành của âm nhạc nhiều bè, đã thấy sự xuất hiện của các bè kèn đồng trong dàn nhạc. Năm 1288, tại Vienne đã thấy sự xuất hiện của một phân phổ kèn trumpet do Nicolai Bruderschaft thu thập được.
Một trong những loại hình nghệ thuật kèn đồng còn tồn tại tới ngày nay, đó là nhạc fanfare (chủ yếu dùng các loại trumpet và trombone) và trải qua nhiều thế kỷ đã dần hình thành nên loại hình hòa tấu thính phòng cho dàn kèn đồng. Các kèn đồng thường thấy là trumpet natural, busine, ngoài ra còn có tiền thân của kèn tuba cổ với đường kính rất lớn, xuất xứ từ Rome. TK XIV, người ta thấy xuất hiện nhiều kèn horn (cor) đi săn, một dạng kèn tự nhiên (natural). TK XV xuất hiện thêm một nhạc cụ đồng mới là trombone. TK XVIII, trên cơ sở của trumpet natural, hampel và werner, các nhà chế tác nhạc cụ ở Drezda đã tạo thêm ống “lên dây” cho kèn trumpet. Để các loại kèn có thể chơi được những điệu thức khác nhau, các nhà chế tác nhạc cụ châu Âu đã sản xuất inventionshorn và inventionstrumpet.
Một nhạc cụ hơi đặc biệt khác là clarino (tiếng Đức là clarintrompete) đã được J.S. Bach sử dụng như là một loại kèn trumpet âm cao. Nguyên gốc là kèn trumpet en D, sau này phổ cập hơn, đổi thành trumpet en Es, loại kèn này được các nhạc sĩ Cổ điển Vienne sử dụng thường xuyên. TK XIX, người ta thường gọi loại kèn này là Bach trumpet. Ngoài ra còn có một nhạc cụ đồng khác được chế tác bằng gỗ, đó là cornetto (tiếng Đức là zing) được dùng với nhiều giọng khác nhau trong âm nhạc Baroque. Loại kèn này sau được chế tác lại bằng đồng và thiết kế thành một nhạc cụ chromatique. Vào năm 1770, tại St. Peterburg một người Đức tên là Kolbel đã phát hiện ra kèn horn (cor) có phím bấm (tiếng Đức gọi là klappenhorn).
Sự thay đổi mang tính cách mạng đối với các chủng loại kèn đồng xảy ra vào năm 1818, khi Heinrich Stolzel đã hoàn thiện các cây kèn đồng, trước hết là cây horn như ngày nay chúng ta thường thấy. Với hệ thống ba phím bấm, các loại kèn đồng nói chung (ngoại trừ kèn trombone) đã làm chủ trong cách chơi nhiều đoạn nhạc chromatique kỹ thuật khó, và những trở ngại về điệu thức từ đó đã được chấm dứt. Sự hình thành các chủng loại nhạc cụ mới này mở ra một thời kỳ mới sáng tác cho kèn đồng. Một trong số nhạc sĩ thực hành những cải biến mới này là R. Wagner với loại Wagner tuba nổi tiếng. Cũng với kế hoạch phát triển nhạc cụ đồng của Richard Wagner, loại kèn basstrumpet với nhiều giọng khác nhau đã ra đời. Hệ thống ngón bấm piston được hoàn chỉnh dần theo thời gian, trên cơ sở đó đã hình thành nên loại nhạc cụ có tên gọi cornet à pistons. Cũng từ đây, âm thanh phát ra của các loại kèn đồng trở nên chuẩn xác hơn, sạch hơn. Các chủng loại kèn trombone trung và trầm như tenor – basstrombone, đôi khi cũng được bổ sung thêm hệ thống ngón bấm, tạo nên sự thống nhất âm sắc giữa các bè trombone.
Sự nghiệp hoàn chỉnh và nâng cấp các chủng loại kèn đồng vẫn được tiếp tục tới ngày nay. Ngoài những nhà sản xuất kèn đồng nổi tiếng ở châu Âu và Bắc Mỹ, các nhà sản xuất kèn đồng châu Á (Nhật Bản, Trung Quốc…) cũng bắt đầu có thương hiệu nổi tiếng. Những cố gắng cải tiến kèn đồng còn đặc biệt chú ý tới việc mở rộng các âm cao và âm trầm, hoặc giúp cho việc phát âm trên nhạc cụ được dễ dàng hơn.
Các nhạc cụ đồng (kèn đồng) ngày nay giữ một vị trí quan trong trong đời sống biểu diễn âm nhạc, và được nhiều nhạc sĩ cũng như công chúng yêu thích. Nhờ đó, bộ đồng có thêm sức mạnh cạnh tranh về kỹ thuật diễn tấu với các bộ khác trong dàn nhạc giao hưởng. Tuy nhiên, những hạn chế mang tính chất tính năng của bộ kèn đồng vẫn là điều khó khắc phục.
Ngũ tấu đồng (brass quintet)
Ngũ tấu đồng là một hình thức hòa tấu được sáng tác cho các nhạc cụ kèn đồng. Biên chế ngũ tấu gồm: 2 trumpet hoặc cornet, 1 French horn (cor – theo tiếng Pháp), 1 trombone hoặc euphonium/ bariton horn và 1 tuba hoặc bass trombone. Trong một số tác phẩm, French horn (cor) hoặc euphonium còn có thể chơi tăng cường cho bè trombone. Ngày nay, đôi khi ngũ tấu đồng còn được bổ sung thêm một số nhạc cụ thuộc bộ gõ như tambourine hoặc timpani…
Trong đời sống âm nhạc ở TK XX, ngũ tấu đồng xuất hiện với hai nhóm nổi tiếng: Chicago Brass Quintet và New York Brass Quintet. Hai nhóm đã đạt được nhiều thành công nhất trong hình thức hòa tấu này, với hàng ngàn buổi công diễn tại Mỹ. Cũng tại đây, hơn 100 tác phẩm mới được sáng tác cho ngũ tấu đồng dành tặng cho American brass quintet, làm phong phú thêm cho kho tàng tác phẩm hòa tấu thính phòng.
Ngày nay, hình thức hòa tấu kèn đồng đã phát triển rộng khắp thế giới. Một trong những đặc trưng khiến loại hình hòa tấu kèn đồng được đông khán thính giả yêu thích, đó là ngũ tấu đồng (brass quintet) có thể chơi được những tác phẩm có tính chất âm nhạc khác nhau: nhạc hàn lâm, phát triển từ dân ca, nhạc nhẹ (pop, rock), nhạc jazz…
Brass quintet repertoire
Bốn bản ngũ tấu đồng được Victor Eward sáng tác là những tác phẩm đầu tiên của loại hình hòa tấu này. Những chương trình biểu diễn (repertoire) đầu tiên của ngũ tấu đồng được thực hiện bởi Chicago và New York brass quintet vào khoảng giữa TK XX. Hình thức hòa tấu này còn khá phát triển tại Canada với nhóm Canada brass quintet rất nổi tiếng. Cho đến nay, số lượng tác phẩm ngũ tấu đồng trên toàn thế giới đạt tới con số vài trăm. Trong đó có những tác giả nổi tiếng như Marcold Arnold (Quintet for Brass, Op.73); Edward barnes (Variations for Brass Quintet); Leonard Bernstein (Dance Suite for Brass Quintet); Eugene Bozza (Quintet for Brass)…
Các tác phẩm sáng tác cho kèn đồng của các nhạc sĩ Việt Nam
Các tác phẩm sáng tác cho kèn đồng của các nhạc sĩ Việt Nam có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự nghiệp phát triển ngành kèn đồng tại nước ta. Ngoài việc sử dụng các tác phẩm quốc tế, việc biểu diễn và giảng dạy các tác phẩm Việt Nam sẽ tăng cường tình yêu quê hương đất nước, ý thức dân tộc cho sinh viên các học viện, nhạc viện trên phạm vi toàn quốc. Ngôn ngữ âm nhạc của những tác phẩm này thấm đượm chất dân ca, sẽ nâng cao trình độ thẩm mỹ và nhân cách của sinh viên chơi nhạc cụ kèn đồng.
Như các nhạc cụ khác, các chủng loại kèn đồng cũng thường độc tấu, hòa tấu thính phòng và chơi với dàn nhạc. Trong dàn nhạc giao hưởng thường thấy xuất hiện kèn trompette, cor, trombone và tuba. Mỗi loại lại được chia thành nhiều chủng loại khác nhau với những giọng khác nhau. Trong dàn nhạc giao hưởng, người ta hay đề cập tới cụm từ hợp xướng kèn đồng, bởi màu sắc âm thanh của chúng rất hòa hợp, thống nhất khi chơi phần nền hòa âm của dàn nhạc. Những âm khu khác nhau từ cao đến thấp của bốn loại kèn nói trên, bổ sung cho nhau, tạo nên một bức tranh màu sắc hòa quyện trong việc thể hiện hình tượng âm nhạc và nội dung tác phẩm.
Các tác phẩm sáng tác cho kèn đồng của các nhạc sĩ Việt Nam là rất ít. Chính vì vậy, nhiều nghệ sĩ kèn đồng đã phải chơi những ca khúc hoặc các tác phẩm chuyển soạn từ các nhạc cụ khác. Trong những năm cuối TK XX, đầu TK XXI, nghệ sĩ kèn bassoon Nguyễn Phúc Linh đã có nhiều cố gắng trong việc sáng tác những tác phẩm cho kèn đồng. Những tác phẩm này được dùng cho biểu diễn và giảng dạy tại các học viện âm nhạc, nhạc viện trong nước. Chẳng hạn: 2 pieces cho kèn Trumpet và Piano (2005), Solo for Natural Horn (2006), Scherzo cho kèn Trumpet và Piano (2006), 2 Romances cho horn (cor) và piano (1997 và 2004), Piece cho Horn và Piano (2008), Quintet N0 4 for Brass Quintet (2014)… Những tác phẩm này đã được lưu giữ tại thư viện của Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam và Nhạc viện TP.HCM.
Nhìn chung, trong thời kỳ đổi mới, đời sống âm nhạc nước nhà đang có những chuyển biến tích cực, do đó vai trò của bộ kèn đồng ngày càng được khẳng định. Những đóng góp của kèn đồng trong đời sống văn hóa nghệ thuật đã được giới chuyên nghiệp cũng như thính giả Việt Nam dành cho nhiều tình cảm đặc biệt. Âm thanh của kèn trompette như tiếng gọi giục giã chiến đấu vì tổ quốc thân yêu. Những âm sắc mềm mại của kèn cor diễn tả tình yêu trên những cánh đồng lúa xanh bất tận. Âm thanh hùng tráng của kèn trombone như tiếng gọi của biển khơi, và âm thanh trầm của kèn tuba như tiếng đoàn voi ra trận… Như vậy, âm hưởng của bộ kèn đồng vừa có tính hùng tráng, vừa có chất trữ tình, dịu ngọt (nếu chơi ở trình độ cao).
Trong những tác phẩm đương đại của các nhạc sĩ TK XX, vai trò của bộ kèn đồng ngày càng được đề cao. Vị thế của bộ đồng đã được khẳng định đối với nhạc sĩ sáng tác, nhạc công và cả với công chúng yêu thích âm nhạc.
_______________
1. Stanley Sadie (respon siblefor publishing), The Grove Dictionary of musical Instruments, Macmillan Publishers, 1980.
2. Borgar Istvan, Các nhạc cụ đồng (kèn đồng), Nxb Âm nhạc Budapest, 1975.
Nguồn : Tạp chí VHNT số 362, tháng 8-2014
Tác giả : Phạm Quốc Chung
Bài viết cùng chủ đề:
Festival Huế – Nét đẹp văn hóa dân tộc Miền Trung Việt Nam
Nhận diện âm điệu bài chòi (p2)
Những giá trị trong nội dung hát ghẹo