Khỉ – từ biểu tượng văn hóa đến biểu trưng ngôn ngữ

Từ Đông sang Tây, tự cổ chí kim, dù khác nhau về nền văn hóa, khỉ đã trở thành một biểu tượng xuyên văn hóa, có sức mạnh biểu trưng phong phú. Từ một biểu tượng xuyên văn hóa, khỉ đã bước vào đời sống con người thông qua lớp ngôn từ đời thường và ngôn ngữ nghệ thuật. Tùy theo sự tri nhận, đặc trưng tư duy của từng dân tộc mà biểu tượng khỉ có những nét biểu trưng nổi trội. Hình ảnh khỉ không chỉ xuất hiện trong ngôn ngữ đời sống người Việt, mà còn đi vào ngôn ngữ văn chương với những biểu trưng đa diện, đa sắc thái.

1. Biểu tượng khỉ qua các nền văn hóa

Khỉ có nhiều đặc tính giống loài người, thuộc loài động vật có vú, sinh con, thường ở trong rừng, ưa nhảy nhót chuyền cành, sống từng bày đàn, thông minh hơn các loài vật khác, đặc biệt có tài bắt chước con người. Vì vậy, trong các nền văn hóa, hình ảnh con khỉ là biểu tượng cho sự nhanh nhẹn, hoạt bát, tinh nghịch, láu lỉnh nhưng được tôn thờ như một vị thần có sức mạnh vô biên trong hành trình tiễu trừ cái ác.

Trong Phật pháp, hình tượng khỉ (tiếng Phạn là Markata, dịch âm là ca tra), mang nhiều hàm ý thâm sâu. Khỉ xuất hiện khá nhiều trong các câu chuyện của kinh Phật: Câu chuyện về vượn khỉ dâng mật ong, Vua khỉ lấy thân mình cứu chúng khỉ, Con khỉ tự cho mình là thông minh, Vua khỉ trí tuệ và trong nhiều cụm từ của Phật giáo: Khỉ bắt trăng, Sông Ma Các, Động đá cổ Ti Ô ở Trạch Dương… Do tâm tính của khỉ vội vàng, tùy tiện, khó điều khiển, thường bỏ một chọn một nên trong sách cổ thường so sánh khỉ với vọng tâm của người phàm trần. Trong quyển 43, Tạp a hàm kinh đã dùng sáu loại động vật là: chó, chim, rắn độc, dã can, thất thu ma la, khỉ để ví với lục căn của chúng sinh. Khỉ được ví với cái tâm xấu xa, không thể tĩnh tại của con người qua hình ảnh lục song nhất viên (sáu cửa sổ một con vượn) (1).

Từ nhân vật trong thần thoại Hindu, khỉ Hanuman trở thành nhân vật trung tâm trong hai bộ sử thi vĩ đại của dân tộc Ấn Độ là: Ramayana Mahabharata. Khỉ Hanuman đã giúp người anh hùng Rama trong cuộc chiến chống lại vua quỷ Ravana. Trong các đền thờ ở Ấn Độ đều có hình ảnh Hanuman, vị thần khỉ nổi tiếng với vũ khí là quả chùy (gada), biểu tượng của lòng dũng cảm, sự trung thành. Trong văn hóa Khơme, cũng bắt gặp hình ảnh Hanuman ở khắp nơi, trong sách vở, đền chùa, tranh tượng, tranh phù điêu chạm trổ, trong tín ngưỡng cầu mưa của người Campuchia.

Truyền thuyết về Hanuman sau khi đến Trung Quốc trở thành câu chuyện Tôn Ngộ Không nổi tiếng trong Tây du ký. Theo Phật giáo, Ngộ Không là sự giác ngộ từ những cái không: không cha mẹ, nhà cửa, gia đình, vợ con… Theo Lão giáo, Ngộ Không là con khỉ đá, sinh ra từ khoảng trống của trời, đất. Con khỉ là bạn đường có phép thuật cao cường giúp cao tăng Huyền Trang trong cuộc hành trình đi tìm kinh Phật.


 Tượng khắc hình những con khỉ trên thápKhương Mỹ, Quảng Nam. Ảnh Tư liệu  

Trong quan niệm Á Đông, thân (con khỉ) đứng hạng thứ 9 của 12 con vật trong thập nhị địa chi, đi vào đời sống qua năm thân, tháng thân, ngày thân, giờ thân. Trong quan niệm của dân tộc Hán, khỉ được xem là con vật cát tường. Do chữ hầu (khỉ) đồng âm với hầu (tước hầu) nên trong nhiều bức tranh có vẽ hình con khỉ với ngụ ý phong tước quan hầu. Khỉ còn xuất hiện trong các nghi thức cúng tế (dân tộc Cao Sơn, ở Đài Loan), võ thuật truyền thống (võ hầu quyền), trong nghệ thuật biểu diễn (sân khấu kinh kịch với những tích tuồng cổ: Động Thủy Liêm, Náo thiên cung, Kim đao trận, Mượn quạt, Động Vô đáy)…

Ở Nhật Bản, do ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa, môtip khỉ bắt bóng trăng trong nước rất phổ biến trong nghệ thuật hội họa. Tại vùng Nikko, trong đền Toshogu còn lưu giữ một bức điêu khắc cổ bằng gỗ của nghệ nhân Hidari Jingoro (TK XVII) có bức tượng 3 con khỉ tên là: Mizadu (bịt mắt), Kikazadu (bịt tai), Iwazadu (bịt miệng). Hình tượng 3 con khỉ vừa là sáng tạo nghệ thuật, đồng thời vừa ẩn chứa nhiều ý nghĩa sâu xa mà người Nhật muốn gửi gắm: bịt mắt để dùng tâm mà nhìn, bịt tai để dùng tâm mà nghe, bịt miệng để dùng tâm mà nói. Khi tâm ở trạng thái tĩnh, không bị quấy rầy, phân tán bởi điều xấu, thì tâm mới ngộ ra điều thiện. Lúc này, hãy dùng cái tâm thiện mà nghĩ, nói, làm.

Trong tín ngưỡng của người Ai Cập cổ đại, hình ảnh thần Thoth, vị thần mặt trăng, bảo trợ của các nhà thông thái, những người có học thức được tạo dựng dưới dạng một con khỉ đầu chó trắng to lớn. Thần Thoth vừa là nghệ sĩ, bạn của các loài hoa, vườn tược, hội hè, vừa là nhà ma thuật, người dẫn linh hồn. Biểu tượng này cũng xuất hiện ở vị thần Shinje có đầu khỉ theo quan niệm của người Tây Tạng (2).

Trong nền văn hóa phương Tây, hình ảnh con khỉ xuất hiện khá mờ nhạt bên cạnh các con vật thần thoại như: nhân mã, nhân sư, mỹ nhân ngư… Con khỉ, tên cướp đường, kẻ liều lĩnh vui tính, hay chọc tức, nổi cáu nhưng cũng hay đùa cợt được minh họa trong thần thoại Hy Lạp về những Cercopes (giống quỷ lùn chuyên sống bằng nghề cướp đường) (3). Khỉ trở nên gần gũi hơn trong nền văn hóa đại chúng phương Tây qua hình tượng King Kong (con khỉ đột khổng lồ) trong bộ phim khoa học giả tưởng cùng tên của đạo diễn Mỹ Ernest B.SChoedsack (1933, sau đó tiếp tục được làm lại vào 1976, 2005). Mặc dù xuất hiện muộn hơn rất nhiều so với tổ tiên nhưng King Kong lại có sức lan tỏa nhanh trên khắp thế giới nhờ những ưu thế tuyệt vời mà nghệ thuật điện ảnh hiện đại đem lại.

2. Khỉ trong ngôn ngữ đời sống người Việt

 Ngôn ngữ là một trong những thành tố đặc trưng nhất của nền văn hóa dân tộc. Đặc trưng văn hóa của mỗi dân tộc được thể hiện rõ qua hành vi nói năng ở mỗi cộng đồng, mỗi ngôn ngữ.

Người Việt vốn xuất phát từ nền văn hóa lúa nước, bên cạnh hình ảnh con trâu, con cò vốn rất gần gũi, thân thuộc trong tâm thức mỗi người dân Việt, con khỉ hiện diện như một loài vật mang lại nỗi lo lắng, bất an. Bởi ngày xưa, khi ruộng đồng còn gần rừng núi, khỉ hay đến phá hoại hoa màu, ảnh hưởng không nhỏ tới đời sống con người. Mặc dù vậy, người Việt lại không sợ, không ghét khỉ. Trong 12 con giáp, nếu như hình ảnh con rồng, biểu tượng về mặt tâm linh, tinh thần, thì khỉ lại là biểu tượng gần con người nhất về mặt vật chất, thể xác. Người Việt nghĩ đến rồng với tâm thế kính nhi viễn chi bởi sự linh thiêng, linh ứng của nó, còn với khỉ người Việt lại tỏ ra thân thiện, suồng sã, có thể bông lơn, đùa cợt.

Trong tiếng Việt có 11 từ được dùng để chỉ khỉ: hầu, khỉ, khởi, khẹc, khọn, tườu, nỡm, bù dù, đười ươi, vượn nghề với đặc điểm láu táu, nghịch ngợm, phá phách, phét lác. Trong cuộc sống hàng ngày, những lời mắng liên quan đến khỉ xuất hiện khá nhiều, nhưng hầu hết mang một sắc thái nhẹ nhàng, mắng yêu, cùng một chút bỡn cợt: đồ khỉ, đồ khỉ gió, đồ con tườu, đồ con khẹc, đồ nỡm, đồ bú dù… Gặp phải chuyện chẳng vừa ý thì: khỉ thật, khỉ họ, bố khỉ…; thất vọng, bực bội khi việc chưa xong: chẳng được việc khỉ gì cả, chẳng ra cái khỉ khô gì cả. 37 năm đi thi với tám khoa thi hỏng đều hỏng, Tú Xương đã giễu mình, rủa đời, tung hê những cái nhố nhăng, bất công, phi lí của xã hội bằng lời than thở sâu cay: “Cử nhân: cậu ấm Kỷ/ Tú tài: con đô Mỹ/ Thi thế mà cũng thi!/ Ới khỉ ơi là khỉ!” (Than sự thi).

Dân gian tạo dựng kho kinh nghiệm sống, quan niệm sống, triết lý nhân sinh sâu sắc liên quan đến con khỉ. Đó là lời nhắn nhủ thận trọng, cân nhắc khi ứng xử với khuyết điểm của người khác: “Con chó chê khỉ lắm lông/ Khỉ lại chê chó ăn dông ăn dài”; “Chuột chù chê khỉ rằng hôi/ Khỉ lại trả lời: cả họ mày thơm”; khi nhìn người và dùng người: “Nuôi ong tay áo, nuôi khỉ dòm nhà”, “Nuôi khỉ giữ nhà, nuôi nai cái dái dọc già”. Đó còn là lời chê bai những việc làm không hiệu quả, chẳng đi đến đâu, chỉ làm mọi việc trở nên rối rắm: “Giết gà dọa khỉ”, “Rung cây nhát khỉ”, “Đồ dạy khỉ leo cây”; những lời hứa suông, hứa để mà có, cho qua chuyện: hứa hươu hứa vượn; nhắc khéo về thái độ cau có, khó chịu: đồ khỉ dính mắm tôm, nhăn nhó khi khỉ dính mắm tôm, mặt nhăn như khỉ, nhăn nhó như khỉ ăn gừng, khó tính như con nỡm…

Dân gian còn gửi gắm những bài học mang tính triết lý nhân sinh sâu sắc: phải biết bằng lòng với những gì đang có, chê bai thứ này lại gặp thứ khác tồi tệ hơn: khinh khỉ lại mắc độc già; gọi tên đúng sự vật với bản chất, vật nào chỗ ấy, đều có vị trí của mình: khỉ lại là khỉ, mèo lại hoàn mèo.

3. Biểu trưng khỉ trong ngôn ngữ văn chương Việt

Hình ảnh khỉ không chỉ xuất hiện trong ngôn ngữ đời sống người Việt, mà còn đi vào ngôn ngữ văn chương với những biểu trưng đa diện, đa sắc thái. Môi trường sống tự nhiên của khỉ chủ yếu là núi rừng xa xôi, hiểm trở, nên khỉ còn biểu trưng cho sự vắng vẻ, hoang liêu, cô tịch. Để diễn tả cảnh hoang dã, buồn thảm, hẻo lánh, không có bóng dáng người, nơi sơn cùng thủy cốc, người Việt thường dùng thành ngữ: khỉ ho cò gáy, vượn hú chim kêu. Không gian ấy còn phủ lên tâm trạng, tình cảm của con người. Đó là nỗi lòng trắc ẩn của người con gái khi lấy chồng xa: “Má ơi đừng gả con xa/ Chim kêu vượn hú biết nhà má đâu”; nỗi cô đơn của phận gái đơn chiếc: “Khỉ bồng con lên non kiếm trái/ Cảm thương nàng phận gái mồ côi”; niềm khắc khoải, lo lắng, hoảng hốt trong từng bước chân của người vợ vượt núi băng đèo chạy theo bóng dáng của chồng đang dần xa khuất: “Mồ hôi gió đượm/ Thiếp thương chồng thiếp phải chạy theo/ Con ơi, mẹ dắt lên đèo/ Chim kêu bên nọ, vượn trèo bên kia” hay nỗi lòng u buồn, luyến tiếc của người thi sĩ khi sắp sửa ly biệt mùa đẹp nhất trong năm: “Nhạn về én lại bay đi/ Đêm thì vượn hót, ngày thì ve ngâm” (Cảm thu, tiễn thu, Tản Đà).

Trong số các loài vật, khỉ là loài giống người nhất. Nó không chỉ có nhiều nét gần gũi với con người về thể xác, mà cả cách biểu hiện cảm xúc, tình cảm. Điều đó lý giải tại sao những trạng huống cảm xúc của con người thường được so sánh với loài khỉ. Người đang có nỗi lòng không vui, khổ tâm, cau có, khó chịu với mọi người thì mặt nhăn như khỉ ăn ớt, nhăn nhó như khỉ ăn gừng, rầu rĩ như khỉ chết con.

Từ một biểu tượng xuyên văn hóa, khỉ đã bước vào đời sống con người qua lớp ngôn từ đời thường, ngôn ngữ nghệ thuật. Quá trình dịch chuyển, thẩm thấu từ mẫu gốc ấy đã thể hiện đặc trưng văn hóa, dân tộc trong cách nghĩ, lối nói của người Việt. Nghĩ về biểu tượng khỉ trong ngôn ngữ, đời sống cũng là cách để tiếp cận, khám phá, luận giải những biểu hiện đa diện, nhiều chiều, phức tạp của văn hóa, tâm thức dân tộc Việt. Bằng điểm nhìn văn hóa, triết học nhân sinh, tinh thần nghiệm sinh, biểu tượng khỉ đã nối kết những ký ức văn hóa của nhân loại với cuộc sống hiện đại, từ tộc người này đến tộc người khác về các vấn đề thế giới quan, nhân sinh quan sâu sắc của mỗi cá nhân, dân tộc, nhân loại.

______________

1. Thích Điền Tâm, Các loài động vật trong Phật giáo, Nxb Hồng Đức, Hà Nội, 2012, tr.116.

2. Bardo Thodol, Người chết đi về đâu? Người tây tạng nghĩ về cái chết, Nxb Thời đại, Hà Nội, 2011, tr.58.

3. Jean Chevalier, Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, Nxb Đà Nẵng, 2002, tr.481.

 

 

Nguồn : Tạp chí VHNT số 380, tháng 2-2016

Tác giả : NGUYỄN VĂN HÙNG

Đánh giá post

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *